(tiếp theo)
Sau cha già ,cha trẻ, Nguyễn Khải cho cha thứ ba ‘ra sân khấu”. Đó là cha Hoè người “đi làm phúc, đi thăm kẻ liệt” bằng xe máy. Một lần chẳng may cha đâm phải một bà lão, cha phải chở bà vào bệnh viện , phải trả “mười đồng năm hào” tiền thuốc tiền ăn, lại biếu cụ năm chục để cụ bồi dưỡng, ấy thế mà con gái cụ vẫn mò đến tận nhà xứ - mà theo lời cha -“cái con quỷ cái ấy nó vừa khóc lóc vòi tiền , lại vừa hăm doạ xa xôi, rút lại cha đành phải đưa thêm cho nó năm chục nữa. Vị chi là một trăm mười đồng năm hào.Ấy là chưa kể tiền xăng đi đi về về thăm nom bà lão suốt mười ngày điều trị…”
Diễn tả vậy, giống thằng chạy mánh đâm phải bà cụ rồi xuýt xoa tính toán chi li số tiền phải móc ra đền, chứ chẳng phải một cha xứ gây tai nạn sau đó săn sóc họ với tình thương bao dong.
Một hôm cha Hoè tới thăm cha Thư, dùng cơm trưa xong, “khách quý hớp một ngụm nước to, súc nhổ ầm ầm , lấy tăm gẩy giòn giã cả hai hàm răng vừa to vừa khoẻ rồi lại tiếp tục nói ào ào…”
Đúng một anh lái trâu chứ không hề là một linh mục chăm sóc phần hồn con chiên. Tuy nhiên đọc tiếp , người ta lại thấy cái ông linh mục Hoè này ngoài hình hài lái trâu , bên trong lại đúng là một ông cha cố “quốc doanh” được cài vào giáo hội khủng bố tinh thần linh mục .
Cơm nước xong, cha Hoè doạ cha Thư :
“ Chắc là cha biết chuyện Uỷ ban xã Lạc Hồng mời cụ Vịnh ( linh mục) lên chất vấn chứ ?”
Rồi cha Hoè kể tội :
“ Thật không ai dại như cụ Vịnh. Người ta vừa bế mạc hội nghị Thiên Chúa Giáo chiều thứ bảy, sáng chúa nhật là ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, cụ dám lên Toà giảng nói xưng xưng :” Chúa Thánh thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống, cho nên người bổn đạo phải chú ý sửa lưỡi , phải nói ngay nói thật kẻo lỗi giới răn thứ tám…”. Nói thế bằng tuyên chiến công khai với mặt trận còn gì…”
Và cha rủa cha Vịnh :
“Mà ông ta đâu đã trọn, cũng gian dối, cũng mưu mẹo còn hơn kẻ khác…”
Nghe cha Thư nói cha không làm gì cha đâu có sợ , cha Hoè lại doạ :
“ Cha không làm gì nhưng kẻ khác làm người ta vẫn cứ lôi cha vào. Một thằng áo chùng làm láo thì cả bọn áo chùng phải mang tội mang vạ. Biết để còn kịp ngăn nhau chứ …”
Rồi cha giở trò “tâm lý chiến :
“ ……chỉ những tội trọng mà cụ Vịnh đã chủ mưu , đã nhúng tay trong thời kỳ sửa sai cải cách ruộng đất cũng đủ để chính phủ họ xử bắn rồi, không phải chỉ bắn một lần mà phải bắn đủ mười lần . mấy năm nay con đi hầu cụ Vĩnh tại xứ Nhất này , nên con biết…”
Khủng bố tinh thần cha Thư chán chê, cha Hoè mới lộ ý đồ bêu xấu, báng bổ Chúa :
“ Con được cử ra coi sóc xứ đạo trước cha vài năm, con xin thưa với cha một sự thật đau đớn . Nơi nào phần đời thịnh thì giáo hữu còn làm được việc này việc khác, yên ấm nhiều bề. Nơi nào phần đạo thịnh thì cờ bạc , rượu chè, kiện cáo, đôi khi còn đánh chém nhau ngay cả trong nhà xứ. Mắt con nhìn thấy, tự con là người trong cuộc, bảo rằng không nên tin thì chỉ còn cách đâm thủng cả hai tai, chọc mù hai mắt…”
Sau khi mượn mồm giáo dân, chánh trương, trùm họ với cả cán bộ Đảng và Nhà nước bôi bác đạo chưa thoả , Nguyễn Khải chui cả vào mồm linh mục chửi cho bõ tức.
Cứ theo đúng lời cha Hoè thì giải tán nhà thờ, bỏ mọi việc đạo xã hội sẽ “yên ấm” nhiều bề, còn không sẽ biến hết thành ma quỷ, xúm vào đâm chém nhau. Vốn là linh mục mới ra trường, đức tin còn nặng, cha Thư không sao lọt tai những lời phản Chúa, ông “cười nhợt nhạt” :
“ Nếu tôi hiểu được lời cha nói thì cha đang làm lại giáo lý ?”
Đây thật là một lời kết tội nặng nề với một đấng “chăn chiên”, nhưng với cha Hoè, chẳng là cái gì , cha vẫn thở ra cái “triết lý sống” vô thần sặc mùi chính trị thực dụng :
“ nếu con làm theo ý muốn của đức Giám mục thì thân con phải ngồi tù, xứ đạo sẽ khô héo.Con làm theo cách hiểu của con thì việc đời sẽ vui vẻ mà sự đạo cũng trọn lành.”
Cái cách của cha là cam chịu trở thành cái đuôi cho chính quyền tha hồ vẫy ngược vẫy xuôi, nhà thờ và giáo hội chỉ còn là một tổ chức quần chúng của Đảng, “ kính Chúa và yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội…” – chính là cái cách Đảng đưa tôn giáo theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội..
Vài ngày sau, trên đường “kiệu mình Thánh” ở các xã, cha Hoè lại ghé vào thăm cha Thư. Lần này cha Thư còn kinh ngạc hơn nữa vì cha Hoè “ không mặc áo nhà tu mà vận sơ mi ngắn tay màu vàng nhạt, quần mầu sẫm, đi giày da nâu , đầu trần , lại cả kính râm nữa. Với bộ quần áo ấy nom cha trẻ đẹp hẳn , mà tự nhiên, thoải mái hết sức…”
Đúng là một gã làng chơi chứ chẳng ai ngờ đó lại là cha xứ. Đã vậy ông còn chọc tức người đồng đạo :
“ Con mang cái vỏ của thế gian nom có nghịch mắt quá không ?”
Cha Thư kêu lên :
“ Đi kiệu Mình Thánh mà mặc xống áo này ?”
Rồi cha giảng giải :
“ Tôi đi kiệu Mình Thánh phải đi từ sớm mai, túi Mình Thánh đeo trước ngực , áo phép phủ ngoài , dọc đường chỉ nghĩ tới những sự khốn khó Chúa phải chịu, ai hỏi không nói, ai gọi không thưa, mà còn hãi chưa được sùng kính…”
Cha Hoè không những phớt lờ cả luật lệ nhà thờ mà còn trâng tráo, báng bổ :
“Con thì khác. Đã hỏi là con phải thưa, phải chào. Còn nghiêm mặt đi thẳng họ lại nghĩ mình hờn giận việc gì, bực tức gì sinh hiểu nhầm nhau rồi khổ…”
Thế rồi ông cha Hoè chở cha Thư đi tham dự “tuần chầu lượt thay địa phận”. lúc xe máy chạy qua chợ, các cô bỡn cợt , “hét lanh lảnh” :
“Anh ơi…anh cho em đi cùng với…”
Cha Hoè ngồi nhún nhảy, miệng trả lời, đầu vẫn không ngoảnh lại :
“ lần sau, lần sau tôi sẽ cho ngồi cùng…”
Cái cảnh “cha và con” chim chuột, bỡn cợt nhau giữa ban ngày ban mặt ngay giữa chợ liệu có thể có ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu- Phát Diệm ? Thời bấy giờ, cả nước đang đói, nông dân vắt mình trên đồng ruộng hợp tác mỗi công tính ra cũng chỉ được vài lạng thóc, ngày hai bữa ngô sắn, rau muối là chính, vậy mà ông nhà văn tả bữa ăn của các cha xứ thật không thua gì mấy ông Uỷ viên Bộ chính trị :
“ Thịt gà rán, miến xáo lòng, lại thêm bát riêu cá thật cay, ăn với rau ghém …”. Hai cha lại còn có cả rượu thuốc đưa cay. Cha xứ sống “sướng” như vậy, ai chẳng muốn đi tu.
Sau bữa cơm có một cặp trai gái đến xin làm phép cưới. Khác với cái lần “anh bộ đội và chị cán bộ” bị cha Thư từ chối vì không thuộc kinh; lần này cha Hoè khôn hơn, gà cho hai con chiên :
“ Thế nào, không thuộc được một câu nào hả ? Chỉ cần thuộc một câu là tôi làm tờ chứng cho ngay. Vậy kinh Tạ ơn Đức bà có thuộc không ? “ Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Đức Chúa Lời ở cùng bà…”
Vậy là xong, “thủ tục” lễ cưới tại nhà thờ được giản hoá tới mức độ hài hước làm cha Thư thắc mắc :
“Họ làm những công việc thiêng liêng ấy một cách trần tục vậy sao ?”
Khi còn lại hai cha với nhau, cha Hoè mới “truy vấn” cha Thư , dồn cha vào cái bẫy kết tội cha “lẹo tẹo” với con chiên :
“ Con lạy cha, cha đừng diễn trò cả với con nữa. Cô ấy đã thú nhận với cả con rồi…cha đã lợi dụng lòng sùng kính thiêng liêng của những cô gái thơ ngây để mưu lợi lộc cho riêng mình….”
Cha Thư choáng váng trước đòn vu cáo trắng trợn. Cha như “ người bị bóng đè, muốn kêu cứu thật to nhưng tiếng kêu không lọt qua được kẽ răng, muốn vùng chạy ra ngoài nhưng chân tay đã bị trói chặt . Còn cái mặt quỷ thì cứ sát gần lại mãi, đã nhìn rõ cả vè mắt của nó, chóp mũi của nó, chân răng của nó. Và cả cái giọng nói của quỷ, nhẽo nhợt, tanh tưởi, cứù bò bám lần lần lên khắp da thịt…”.
Người đọc cảm giác hai linh mục giống y hai cán bộ . Họ cũng moi móc, sát phạt , nhìn nhau như quỷ dữ chẳng khác gì trong “đấu tố” . Cái lối trắng trợn lột trần nhau không phải của các nhà tu hành mà chính là của cán bộ Đảng:
“ Cha phàn nàn kêu ca rằng diềm ren áo lễ của cha rách, rằng giây thắt lưng của cha ngắn , rằng vải may áo chùng thâm vừa thô vừa dày. Cha đã kêu than thì bọn họ phải góp sức mà lo liệu…Đến khi việc vỡ lở, chính quyền can thiệp, lập tức cha nhắm mắt, sõng tay, coi như kẻ đứng ngoài . “ Nào tôi được biết gì đâu. Họ đã lợi dụng danh nghĩa tôi để làm bậy đấy chứ.!”
Cha Hòe chẳng những không còn “đức tin nơi đức chúa Giê xu” mà đối với đức cha bề trên cũng đầy tức tối :
“ Quay mặt về toà giám thì đấng bề trên chỉ một mực hò hét chống cộng, bất hợp tác với chính quyền. Ấy là ngài xui bề tôi làm, còn chính ngài lại nhỏn nhẻn, nhũn nhẽo như kẻ biết vâng phục nhất. Rủi khi mình bị tóm gáy, còng tay thì ngài mới sửng sốt kêu lên : “ ơ, cái thằng ngu thế, Chúa nào bảo nó chống lại người cầm quyền. Nó có ngồi rục xương trong tù cũng là phải…”
Cha bề trên đã vậy, đến các linh mục chăn chiên ở bên dưới cũng ma lanh không kém :
“ Nhưng, thưa cha kính mến, chúng con cũng khôn lắm , chúng con đã liếc mắt, cười duyên với nhà cầm quyền từ lâu rồi. Hẳn là họ phải tin chúng con hơn, dẫu sao chúng con cũng được lớn khôn dưới chế độ mới. Còn cha quản hạt , người coi sóc giáo lý và tu đức của chúng ta ? Ông ấy mặc kệ, ai muốn làm gì thì làm miễn là đừng có lôi ông ta vào cùng một rọ…”
Cứ thế, nhà văn tưởng tượng ra những “con ngựa thành Troie”, những cha cố phản Chúa “đi đêm với cộng sản”. Phải chăng đây là khía cạnh “triết luận “ giữa “công giáo” và “chủ nghĩa xã hội "mà phê bình gia Vương Trí Nhàn đã tâng bốc ngay khi tác phẩm Nguyễn Khải mới xuất bản ?
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét