(tiếp theo)
Đó là viết về lãnh tụ, thế còn « quần chúng nhân dân ».
Xã hội miền Bắc vào những thập kỷ 60 luôn luôn náo động bởi những đợt « học tập chính trị » . Nào « chỉnh huấn mùa xuân…mùa thu… » nào « tình hình nhiệm vụ mới » trong đó Đảng luôn luôn không để cho dân chúng được yên mà thông qua những đợt « vận động « đó để kiểm soát, rèn giũa tư tưởng sao cho toàn xã hội không còn le lói một tia sáng « phản loạn ». Nhận định về thời kỳ đó, Nguyễn Khải viết :
« Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống... »
Những « phong trào cách mạng », « những hội nghị toàn quốc », « những hô hào la hét ..như một lũ hoá rồ » …chính là những « liệu pháp » kích động cơn lên đồng tập thể của quần chúng để tập trung vào những mục tiêu mà Đảng dẫn dắt toàn xã hội phải chú ý tới. Chính vì vậy không còn « khoảng trời riêng » cho cá nhân, không còn « giây phút tĩnh lặng » để ngắm một bức tranh tĩnh vật. Dường như « âm thanh và cuồng nộ » là đặc trưng cơ bản nhất của một xã hội cộng sản nhất vào thời chiến tranh mà chiến tranh thì kéo dài liên miên khiến trong vòng nửa thế kỷ nó trở thành « vật bất ly thân » của xã hội đó.
Trong suốt cuộc đời Nguyễn Khải, dường như ông viết văn dưới sự cưỡng ép của những quan điểm văn học của Đảng, về cuối đời chưa giải thoát được nó trong sáng tác, thì ông rũ bỏ nó bằng tuyên ngôn . Trước hết ông vạch trần sai lầm của lý thuyết mác xít ảo tưởng « cải tạo con người « :
« Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi »
Théo Nguyễn Khải, tất cả những thứ « cải tạo » đó là vô bổ, bởi lẽ :
« Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào. «
Chính vì quan niệm cần và có thể cải tạo được con người , Đảng đã chất lên vai nhà văn cái danh hiệu « kỹ sư tâm hồn », coi nhà văn như nhà giáo :
« Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn”…Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. «
Nguyễn Khải cãi lại Đảng bằng những lời thật hào sảng :
« Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc. .. «
Than ôi, lẽ ra trong sáng tác, Nguyễn Khải « tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả » như ông đang tuyên ngôn – tiếc thay mọi việc đã diễn ra theo chiều ngược lại, ông đã tự cầm tù trong dòng « văn chương phải đạo », viết ra hàng loạt, hàng loạt những tiểu thuyết truyện ngắn mà bây giờ chế độ cộng sản tuy còn đó mà văn chương xu phụ nó đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử. Lẽ ra bằng tài năng, ông có thể viết ra một thứ văn chương để đời :
« Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. «
Đó là thứ văn chương « tôn trọng mọi giá trị của cá nhân » chứ không phải thứ văn chương « phục vụ chính trị », « phục vụ kịp thời » như Nguyễn Khải đã để lại cho người đời sau. Và cuối đời nhìn lại, so sánh với các nhà văn trong « thế giới tự do », Nguyễn Khải đã thấy xót xa trong lòng :
« Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sĩ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục” (…). Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử! »
Tiếc thay , lời « phản tỉnh » này được nói ra ngay tại Sàigòn vào tháng 4 năm 1975 thì sự hoà hợp giữa các nhà văn của hai miền đã thành tựu được một bước khá dài. Cái thân phận « nhà văn cách mạng » được Nguyễn Khải nhớ lại nghĩ thật là thảm :
« Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân(…). Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn. «
Nhưng « bút ký chính trị » của Nguyễn Khải còn đi xa hơn chuyện văn chương.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét