Thứ Năm, 12 tháng 6, 2014

CHUYỆN XƯA - NAY MỚI NÓI : Hội nghị lý luận phê bình VĂN HỌC – Kỳ 4


              
                           Hội nghị Hà nội – 3-2006

                “Địch” đã đánh vào “tung thâm” rồi, sao còn    
                                                                ngồi yên ?

                                                 ( tiếp theo)

Mấy năm qua chứng kiến sự sụp đổ của các thứ lý thuyết Mác Lênin trong văn hoá văn nghệ, của “ chủ nghĩa Mác và đề cương văn hoá Việt Nam” do ông Trường Chinh vạch ra làm “ kim chỉ nam” cho văn nghệ sĩ, sự tan rã của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa với yêu cầu nghiêm ngặt về tính Đảng, tính giai cấp , tính dân tộc…ông Giáo sư đã la hoảng và gọi đó là một “sự khủng hoảng tổng thể”:” Mà khủng hoảng ở đây rõ ràng không chỉ trong lý luận về văn hoá , văn nghệ. Nó sẽ là khủng hoảng tổng thể”.
Ông Giáo sư lo rằng một khi xảy ra khủng hoảng tổng thể về lý luận thì tất yếu “sẽ làm xáo trộn thực tiễn  - thực tiễn không chỉ của đời sống văn hoá – văn nghệ  mà là thực tiễn xã hội…” Và ông lo lắng cảnh báo :
Xáo trộn thực tiễn xã hội sẽ đưa đến hậu quả gì ?”.
Tất nhiên sẽ là một cuộc cách mạng “màu vàng”, “mầu da cam”…mà ông Giáo sư đã tiên đoán sẽ “ thấm đẫm không chỉ nước mắt, mồ hôi mà cả máu…”.
Tóm lạiông Giáo sư lo rằng “ kinh sách” một khi đã hết thiêng thì giáo đường bị đập phá và cha cố cũng sẽ bị đuổi cổ. Bởi thế ông mới kêu gọi :
Chặn đứng khủng hoảng lý luận . Đó là nhiệm vụ sống còn của của tất cả chúng ta hiện nay…”
Một nhà quán quân “bảo vệ Đảng” ở Sàigòn khác là GS Trần Thanh Đạm, người cách đây hơn một năm đã nổ phát súng đầu tiên vào uy tín chính trị của ông trùm văn nghệ Nguyễn Khoa Điềm cũng có tham luận đả phá nặng nề lý thuyết “ văn học tự vấn” của nhà văn Nguyên Ngọc :
“Tưởng là sản phẩm bột phát nhất thời của một sự đổi mới“ cực đoan, nông nổi trong văn học; cái gọi là “văn học tự vấn“ đã bị vứt vào sọt rác của sự lãng quên, giống như một thứ mốt“ được lăng xê“ vào các thời điểm khủng hoảng tinh thần của xã hội nay đã không còn hợp mốt“ nữa; song thời gian gần đây, tác giả của nó cùng với những người phụ hoạ theo hình như lại tìm cách làm sống lại cái thây ma lý luận đó, cốt làm cho bốc mùi“ cái không khí văn học vốn đã trở nên trong lành hơn từ khi bước vào đầu thế kỷ XXI…”
Ong Trần Thanh Đạm cho rằng ông Nguyên Ngọc đã làm cái việc “ các thứ văn học chuyên miêu tả cái ác, cái xấu, thậm chí cái tục tĩu, thô bỉ trong đời sống và cả trong lịch sử của chúng ta đều được xếp vào dòng văn học tự vấn“  và cáo buộc ông Nguyên Ngọc đã đưa ra quan điểm “ đại khái xã hội ta, dân tộc ta (và trong thâm ý không dám nói ra của nhà bình luận này – đảng ta) vốn mắc nhiều tội lỗi, sai lầm, bê bối… cần bằng văn học, qua văn học mà “tự vấn“ lương tâm về những sai lầm của mình. “
Thực ra ông Nguyên Ngọc cũng chưa nói gì nhiều về luận thuyết “ văn học tự vấn” của ông, mà mới chỉ lớt phớt qua vài bài viết, nhất là về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và “Bóng dè” của Đỗ Hoàng Diệu, vậy mà ông Giáo sư Nguyễn Thanh Đạm đã vội đao to búa lớn kết tội một cách tuỳ tiện :
“ nó chỉ thò lò hai mặt“ lấp lửng nửa nạc, nửa mỡ, nửa trắng, nửa đen cùng một dạng với các thủ đoạn chiến tranh tâm lý mà bọn thù địch của chúng ta ở nước ngoài trước nay vốn vẫn sử dụng, bây giờ lại chuyển giao kỹ thuật“ cho một số kẻ cơ  hội và manh tâm ở trong nước…”
Từ chuyện văn chương, ông Trần Thanh Đạm trắng trợn đẩy sang chuyện chính trị và tới tấp úp mũ cối lên đầu nhà văn Nguyên Ngọc :
“Cứ nhìn xem những ai là kẻ phụ hoạ nó, khuyến khích, cổ vũ nó, thì có thể thấy ngay nó đến từ đâu và phục vụ cho ai. Thực sự thì nó không hề che giấu cái động cơ và mục tiêu chính trị của nó, khi tự nguyện làm một bè trong dàn đồng ca phản cách mạng, phản dân tộc, trong ngoài hô ứng lẫn nhau. Tác giả của thứ lý luận này đã từng công du“ đi tìm đồng minh ở hải ngoại. Không những anh ta thuyết giảng ở đó về văn học tự vấn“ của mình mà còn chịu khuất thân chịu tra tấn“ của những kẻ phỏng vấn mà có giọng điệu giống như một sĩ quan chiêu hồi của chế độ cũ, trước một kẻ cam tâm chiêu hồi trước đây, phải tự vấn“, tự thú“ về thân thế và thành tích ái quốc và cách mạng” trước ông chủ mới…”
Thật là một giọng điệu sắt máu chẳng khác gì mấy anh bồi bút Vũ Đức Phúc, Như Phong, Tô Hoài….đánh Nhân văn- Giai Phẩm ngày xưa. Chỉ riêng ba ông Giáo sư “ mác xít đến chiều” của TP Hồ Chí Minh cũng đủ thổi vào Hội nghị lý luận, phê bình  văn học nghệ thuật toàn quốc một không khí răn đe, khủng bố dễ làm nhụt tinh thần các nhà văn chết nhát.
Trong không khí phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin nhân tháng góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng , tất nhiên cũng có những ý kiến ngược , thoát ly hẳn lối “lý luận” xám xịt và cũ rích của phe bảo thủ.
Giáo sư Trần Đình Sử đã tách bạch “phê bình lý luận văn học” từ năm 1945 tới 1986 là “hệ hình mác xít”, “dựa trên lý thuyết phản ánh vốn là sản phẩm của thế kỷ XIX, trong đó văn học, nội dung, hình thức , phương pháp sáng tác, tính chân thực, thể loại …đều được xét …phù hợp hay không phù hợp theo một hệ thống thế giới quan nhất định. Chức năng văn  học chủ yếu là nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ… Văn học là công cụ của đấu tranh xã hội …do đó nội dung tư tưởng chính trị quan trọng hơn cả tính nghệ thuật…chỉ có nhân vật chính diện , tiên tiến thuộc tầng lớp công nông binh mới là nhân vật chủ đạo của văn học thời đại”.
Kết luận về thứ lý luận phê bình “của đảng” này, Giáo sư  Trần Đình Sử huỵch toẹt :
quan niệm lý luận về nội dung và hình thức như thế đã lỗi thời , không thấy được thực chất đặc trưng của văn học nghệ thuật…”
Thay thế cho “hệ hình macxít” đó, ông Giáo sư nới tới hệ hình “đổi mới” từ sau năm 1985, trong đó “ văn học trước hết là biểu hiện và tưởng tượng sáng tạo…Nội dung văn học không đóng khung trong quan điểm chính trị mà thể hiện trong toàn bộ kinh nghiệm sống, bao gồm mọi mặt văn hoá xã hội tâm linh, vô thức, lý tính và phi lý tính…”.
Ong Giáo sư còn đi xa hơn khi gán cho vai trò làm tan rã một ý thức hệ của văn học :
văn học có một nguồn năng lượng bất kham có thể làm rạn nứt hệ thống hình thái ý thức đã có và góp phần kiến tạo hệ ý thức mới…”
Hình thái ý thức đã có” chẳng phải cái gì khác mà chính là hệ tư tưởng mácxit – lêninnít vẫn được coi là chính thống tại nước ta hiện nay. Từ “lý luận chung”, ông Trần Đình Sử quy về những vấn đề trong thực tiễn :
hình như cái gì ta cũng biết, cũng nói , song chẳng có gì là hiểu sâu, hiểu đến nơi đến chốn. Lý luận trên báo chí phần nhiều là chỉ nói theo, nói leo mà thôi…nhiều  cán bộ quản lý do được đào tạo từ trước đổi mới , tư duy của họ vẫn còn nguyên như cũ…”
Giáo sư Phong Lê thuộc “phe đổi mới” cũng khẳng định :
Văn học đã chuyển sang một giai đoạn mới, mang một chất lượng mới , trên một sơ sở cảm hứng mới về nghệ thuật, trên một quan niệm nghệ thuật mới về con người …”
Giáo sư Nguyễn văn Hạnh cho rằng :
Dù là nói chuyện thường ngày, chuyện tầm thường, bụi bặm, văn học nghệ thuật không bao giờ bằng lòng với thực tại, với cái đang có mà luôn tìm tòi , khát khao vươn tới cái nên có, người hơn, đẹp hơn…”
     Hai phe “bảo thủ” và “đổi mới” “chọi nhau” trong Hội nghị và xem ra vẫn chẳng tiến xa hơn ba cái Hội nghị lý luận , phê bình từ mấy năm trước.
Thế còn các nhà quản lý ? Các nhà lãnh đạo văn học nghệ thuật có quan điểm thế nào trong tình hình hiện nay ? Nhà thơ Hữu Thỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương trong bài đề dẫn đọc tại Hội nghị thừa nhận :
“ từ đầu những năm chín mươi đến nay thực trạng phê bình văn học nghệ thuật đang trở thành mối quan tâm lo lắng …thực trạng đó không chỉ trầm lắng mà còn bộc lộ khá nhiều vấn đề đáng quan tâm…”.
Một trong những vấn đề đang lo nhất chính là “ bảng giá trị “ đang bị xáo trộn vì thiếu những chuẩn mực :
”Thực tế chúng ta đang thiếu một hệ thống chuẩn mực lý luận, một tiêu chí đánh giá , thiếu một hệ giá trị tin cậy làm thước đo kiểm định tác phẩm văn nghệ…”.
Còn ông trùm văn hoá văn nghệ Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban tư tưởng văn hoá, Chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương mặc dầu nghe nói Đại hội tới ông bị giành mất cái ghế ông đang ngồi nhưng khi tổng kết hội nghị ông vẫn lớn tiếng :
xây dựng một nền lý luận văn nghệ mácxit  Việt nam thực sự tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc…”
Ý kiến tổng kết của ông Nguyễn Khoa Điềm  chẳng qua là nhắc lại những ý kiến trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng. Điều đó cho thấy khó mà có một sự thay đổi đáng kể nào trong Đại hội X tới.      
                                             (còn tiếp)
              
   NT
     



Thứ Tư, 11 tháng 6, 2014

HẺM BUÔN CHUYỆN - KỲ 164 - Cô Diana chứ không phải Ngài Thủ tướng…




Chiều nay mưa lớn, mát mẻ, người ngồi chật quán, chị Gái hủ tiu phấn khởi bật tivi vớ ngay phải truyền hình trực tiếp quốc hội chất vấn. Chị vừa chuyển kênh bà tổ trưởng đã la lên :
“ Để coi…để coi quốc hội chất vấn coi chính phủ thực hiện đúng đường lối chính sách của đảng chưa ?”
Thằng Bảy xe ôm cười hô hố :
“ Coi chất vấn để biết thằng nào tham ô, thằng nào chưa bị lộ…chứ còn nói như bà tổ trưởng thì coi làm…đéo gì ?”
Tuy nhiên chiều bà tổ trưởng, chị Gái không chuyển kênh dù cả quán chẳng mấy ai coi. Cô Phượng cave ngó lui ngó tới, bật chợt lên tiếng:
“ Ủa…sao Bộ trưởng tư pháp lại nói “pháp luật là thể chế hóa đường lối của Đảng? Chẳng may đường lối của đảng sai thì pháp luật cũng sai hả chú Ba ?”
Ông đại tá hưu quát :
“ Con cave này láo, đảng có  bao giờ sai mà mày bảo pháp luật sai ?”
Cô Phượng cave cãi bướng :
“ Vậy cải cách ruộng đất đảng có sai không,  16 chữ vàng, 4 chữ tốt  có sai không , khai thác bauxite Tây Nguyên có sai không ?”
Thằng Bảy xe ôm cười hô hố :
“ Sai đâu mà sai, chỉ lầm lẫn chút xíu thôi, sai đâu mà sai…”
Bà tổ trưởng cao giọng :
“ Những cái đó là chủ trương lớn của đảng dứt khoát không sai cũng không lầm lẫn… Phải tin tưởng ở sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của đảng chớ…”
Ông Tư Gà nướng càm ràm :
“ Nếu nói pháp luật là thể chế hóa đường lối của đảng thì là đảng luật chớ đâu phải pháp luật …”
Gã Ký Quèn cười hô hố :
“ Có vậy thôi mà cũng thắc mắc, ở xứ ta cái đéo gì chẳng là của đảng, nào quân đội, nào công an, nào là hiến pháp thêm cái thằng pháp luật nữa  có sao ?”
Bà tổ trưởng dằn mặt :
“ Anh Ký Quèn ăn nói cho lịch sử nha, nói về đảng mà văng đéo là không có được ?”
Cô Phượng cave cười rinh rích :
“ Đúng rồi văng đéo là hỗn với đảng, cứ nói đkmn được rồi…”
Chị Gái hủ tíu thắc mắc :
 “ Đkmn.. là cái quỷ gì ?”
Thằng Bảy xe ôm cười hô hố :
“ Cái này bí mật quốc gia nha…”bật mí” là chết cmnr…he he…”
Cả quán cười ồ, ông Tư Gà nướng càm ràm :
“ Chất vấn Bộ trưởng tư pháp không ông nghị bà nghị nào hỏi :” sao công an bắt người trái luật thế ? Rụp cái đưa lên xe chẳng có lệnh, có quyết định con mẹ gì cả ?”
Cô Phượng cave cười rinh rích :
“ Chất vấn vậy nó đuổi ngay ra khỏi nghị trường…”
Chị Gái hủ tíu lên tiếng:
“ Tôi thắc mắc sao không đòi cách chức bà Bộ trưởng y tế . Nào con nít sơ sinh chích ngừa chết lia lịa, nào bác sĩ mổ ruột thừa cắt nhầm dạ con, nào che giấu dịch bệnh sởi…í mẹ ôi, tội lỗi đầy mình sao không cách chức hả chú Ba ?” 
Ông đại tá hưu quát :
“ Cách chức đâu có dễ…phải thông qua bỏ phiếu tín nhiệm chớ. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói rồi :” Quanh năm chỉ bận bỏ phiếu tín nhiệm còn làm với ăn gì nữa “
Ông Tư Gà nướng thắc mắc :
“ Vậy không bó phiếu tín nhiệm nữa hả chú Ba ?”
Ông đại tá hưu cao giọng :
“ Bó thì chưa bỏ nhưng còn phải chờ chủ trương của Bộ chính trị…”
Ông Tư Gà nướng càm ràm :
“ Bộ chính trị sức mấy muốn bỏ phiếu tín nhiệm…ngộ nhỡ cả 16 ông đều tín nhiệm thấp thì lấy ai lãnh đạo toàn đảng toàn dân chống Tàu ?”
Bà Tổ trưởng la :
“Ông Tư Gà nướng nói bậy nha.16 đồng chí đó là tinh hoa của toàn đảng, toàn dân hun đúc nên làm gì có chuyện “tin nhiệm thấp ?”
Cô Phượng cave chăm chú nhìn hình chợt la lên :
“ Thủ tướng mặc sơ mi trắng, ngực gắn huy hiệu đỏ ngồi hàng ghế đầu kìa…Í mèn ôi…tối nào cũng thấy Thủ tướng lên tivi…đẹp trai dễ sợ…”
Thằng Bảy xe ôm đặt câu hỏi :
“ Đố chị Phượng cave , ai xuất hiện nhiều nhất trên tivi ?”
Cô Phượng cave cười rinh rích :
“ Thủ tướng chớ ai, nào họp chính phủ, nào thăm địa phương, nào tiếp khách quốc tế…có tối nào Thủ tướng không lên tivi ?”
Thằng Bảy xe ôm cười hô hố :
“ Sai bét. Xuất hiện nhiều nhất trên tivi là… cô Diana “siêu mỏng, siêu thấm”, ‘an toàn, vui vẻ ngay cả trong lúc ấy…”
Ong đại tá hưu đập bàn cái rầm :
“ Tầm bậy… làm gì có chuyện đó…”
Gã Ký Quèn vỗ tay cười :
“ Thằng Bảy xe ôm nói đúng đó…cứ 30 phút tivi lại phát hình cô Diana với  băng vệ sinh nhiều hơn Thủ tướng là cái chắc…”
Cả quán cười ồ. Ông đại tá hưu và bà tổ trưởng mặt đỏ tía tai.

11-6-2014


Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

BÁC BA PHI ĐI THĂM MỸ - KỲ 113

                                   (tiếp theo)


Bác Ba Phi nổi cáu :
“ Hà khắc cái con mẹ mày. Mình là phận phó thường dân, các cụ ta đã có câu “gái goá lo chi chuyện trào đình”. Mày là cái thớ gì dám nói Đảng Nhà nước  cai trị hà khắc. Coi chừng tai vách mạch rừng công an xã nó gọi lên lại té đái ra quần…”
Từ hôm đó tuy bác Ba Phi không cấm nhưng thàng Đâụ cũng thôi không hóng hớt chuyện vỉa hè về nói ở nhà nữa, nhất ba cái chuyện chánh trị dính dáng tới  tham ô tham nhũng của các quan chức , chuyện Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa- Trường Sa , giết chóc ngư dân Việt Nam trên biển.
Nhưng nay thì khác ạ. Hoá ra đi thăm  ở Mỹ, học được cái hay cái đẹp ở xứ cờ hoa này chẳng thấy đâu, lại bị nhét đầy đầu những chuyện bê bối, những chuyện tham nhũng, những mặt tiêu cực của Đảng và Nhà nước khiến bác Ba Phi hoang mang chẳng còn biết tin vào đâu ?
Và một khi đã vỡ lẽ thì về sống ở quê nhà chắc chắn không còn yên ả như trước nữa. Chẳng hạn trước đây còn vồn vã trò chuyện chào hỏi những Bí thơ, Chủ tịch, Trưởng công an xã…nhưng bây giờ nhìn mặt mấy cha chắc chắn là muốn tránh cho xa. Hoá ra mồm miệng bên ngoài bẻo lẻo vậy , nào “của dân, do dân, vì dân” nào là “đầy tớ của dân” nhưng bên trong thằng nào thằng nấy chỉ nhăm nhăm rút ruột công quỹ càng nhiều càng tốt. Người dân chẳng may sa chân đến cửa quyền vì khiếu kiện đất đai, đền bù giải toả chắc chắn bị đối xử không khác gì con nợ với chủ nợ . Thêm nữa không khí xã hội cởi mở, thoải mái, dân chủ ở Mỹ cũng tác động tới cái nhìn của bác Ba Phi. Rõ ràng anh cảnh sát Mỹ bác gặp gỡ hiếm hoi trên đường phố thân thiện với người dân nhiều lắm. Họ không có cái vẻ hống hách, doạ nạt người dân , thật khác hẳn cái vẻ hống hách, lạnh tanh của mấy cha công an ở nhà.
“lão già” như đọc được tâm trạng bác Ba Phi, quay sang cười hề hê :
“ Chuyến này bác sang Mỹ tham quan tư bản nó dẫy chết bác thấy ssao ?”
Bác Ba Phi nhăn mặt :
“ Ai bảo nó dẫy chết hồi nào ?”
“lão già” bật cười :
“ Thì kinh điển Mác Lênin từ hồi thành lập nước Việt Nam cộng sản đén giờ cứ nhai nhải giảng giải cho bao nhiêu thế hệ học sinh mà bác không biết à ?’
Bác Ba Phi lắc đầu :
“ Thì từ sau năm 75 tôi có đi học hành gì đâu mà biết ? Thế nay vẫn dậy học sinh  vậy à ?”
“lão già” trợn  mắt :
“ Vẫn dậy như vậy, thay sao được ? Chừng nào cộng sản còn cầm quyền chừng đó vẫn lấy kinh điển Mác Lênin nhồi sọ học sinh Việt Nam, chừng đó vẫn dậy tụi nó “tư bản đang dẫy chết”.
Bác Ba Phi bật cười :
“ Dậy vậy thì cho chó nó nghe. Kìa ..kìa…nó dẫy chết sao đường phố nó lắm xe cộ thế kia ? Nó dẫy chết sao nhà cửa nó cao rộng, sang trọng thế kia, hàng hoá nó chất ngất thế kia ? Nó dẫy chết sao mấy ông lãnh đạo Đảng Nhà nước vẫn đưa con cái sang đây du học, vẫn mua nhà mua đất bên này để phòng hờ sau này xảy chuyện gì thì”vượt biên” sang đây ?”
“Lão già” phì cười :
“ Tôi xem ra bác tiến bộ quá nhanh đó. Mới sang đây có hơn một tháng mà sáng ra nhiều điều…”
Bác Ba Phi ngớ người :
“ Ong bảo tôi sáng ra cái gì kìa ?”
“ Thì chí ít bác cũng nhận ra tư bản nó không dãy chết và kinh điển Mác Lê thì dậy chó không thèm nghe …”
Bác Ba Phi giật mình, tái mặt :
“ Vậy hả …tôi nói vậy thiệt hả ?”
“ Lão già” cười cười :
“ Thì bác vừa nói đấy thôi. Nhưng đó mới chỉ là nhận ra lý thuyết cộng sản sai lầm thôi , còn trên thực tế  bác thấy sao ?”
“Lão già” cười hóm hỉnh , lão tự khen mình đã đặt ra một câu hỏi hắc búa cho bác Ba Phi . Lý thuyết là cái trừu tượng, vậy mà bác Ba Phi còn nhận ra những nguyên lý Mác Lê ngày nay nói chó không thèm nghe , vậy thì chắc bác phải nhận ra những  tham nhũng, thối nát , băng hoaị của Đảng và Nhà nước đang diễn ra từng ngày , từng ngày ngay trước mắt chớ ?.
“Lão  già” hí hửng chờ đợi , tin chắc bác ba Phi sẽ tuôn ra những lời bất mãn, chửi chế độ. Tuy nhiên, bác chẳng nói chẳng rằng, ngồi im thít,mặt mũi nhăn nhó như đang bực bội điều gì.
“ Lão già” hỏi gặng :
“  Vậy trong thực tế ở ngoài đời, Bác thấy Đảng, Nhà nước ta ra sao ? Bác cứ mạnh dạn nói. Mình đang ở Mỹ mà, làm gì có công an, cảnh sát mà lo …”
Bác Ba Phi lắc đầu nín lặng làm “lão gia lại giục :
“ A..chắc bác sợ tai vách mạch rừng chứ gì…không sợ…ở Mỹ này có thằng nào đặt máy ghi âm theo dõi dân tình đâu mà bác lo, bác cứ nói thật cảm nghĩ của bác về Đảng và Nhà nước  hiện nay ra sao nào ?”
Bác Ba Phi biết thừa “lão già” chỉ mong bác tuôn ra những lời lẽ chửi Đảng, chửi Nhà nước một cách thật cay độc như chính lão. Nếu đang còn nhà, sống giữa mạng lưới “chính quyền nhân dân” thì tất nhiên là bụng có khinh ghét Đảng và Nhà nước mấy chăng nữa thì cũng “mackeno” – mặc kệ nó, tội gì nói ra miệng mà mang vạ vào  thân. Cứ bảo người miền Nam thẳng thắng, trực tính, “giữa đường thấy chuyện bất bằng  chẳng tha” – không có đâu ạ, đó là chuyện ngày xưa, còn thời nay, nhìn thấy thằng Chủ tịch xã cho xe tới cào nhà dân thì cũng phải quay mặt đi thôi, thấy thằng ăn cướp đang giật đồ trước mặt mình ngay giữa phố thì cũng phải tảng lờ bỏ đi thôi. Chẳng ai dại gì mà lên tiếng để mang vạ vào thân. Cứ ai giữ mạng người đó cho chắc ăn. Chẳng thế mà mấy chục năm nay Đảng tha hồ mặc sức nào cải tạo tư sản, nào thu hồi giải toả  ruộng đất, nào cho phép chủ tư bản mặc sức gây ô nhiễm môi trường tổn hại tới sinh mạng và đời sống của dân thường, gây khốn khổ đủ điều cho dân đen mà có anh nào dám gân cổ cãi lại  câu nào đâu, ngược lại cứ im thít chịu đựng, tuyệt nhiên không dám nho nhoe xuống đường như thời trước 1975 thời ông Diệm, ông Thiệu.
Tuy nhiên đó là lúc ở nhà trong vòng tay của Đảng, Nhà nước, còn bây giờ, đang ở nước Mỹ, tha hồ mà tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, sợ gì mà không nói ra những bức xúc của mình khi còn ở nhà ?
Kể ra nhận xét về cái chính quyền của Đảng hiện nay thì  rõ “ràng ràng” ra lả nó là một chính quyền ăn cắp, tham nhũng, đục khoét công quỹ. Cái đó thì khắp cả nước ai cũng thấy chỉ trừ ông Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết là mù không thấy khi ông lên tiếng bênh vực cho tham nhũng trong lúc nói chuyện với Việt kiều. Ong nói không có chuyện đó đâu, chẳng qua chị tài vụ giữ tiền cho vay dễ quá,  đến kỳ hạn không thấy đòi thì “em “ lại vay nữa, vay nữa chứ em có tham ô, tham nhũng đâu. Sự thực, chẳng phải tìm đâu xa, cứ nhãn tiền trước mắt mình thằng cha Chủ tịch xã mới 4 năm truớc nó còn là thằng đi phát công văn, thư từ, báo chí, nhà cửa chỉ là cái túp trống hươ trống hoác, ruộng đất thì một cục đất để chọi cũng chẳng có.Ay thế mà bây giờ cứ nhìn coi ! Sau có 4 năm làm Chủ tịch Uỷ ban mà bây giờ nhà nó đã thành cái biệt thự chềnh ềnh giữa chòm xóm, rồi vợ con quần là áo lượt , sáng tối xe hơi đời mới chở con cái đi học bóp còi bin bin chạy ra chạy vào. Rồi chẳng cứ gì Chủ tịch xã, thằng công an xã, thàng thuế vụ, thàng Bí thư , thằng thường vụ…ôi cha cha…quan xã ngày nay chẳng có loe ngoe mấy mống như thời xưa, giờ dễ phải lên tới con số vài chục. Vài chục thằng chỉ sau một nhiệm kỳ 4 năm làm cán bộ mà thàng nào thằng đó nhà cao cửa rộng, vài mẫu ruộng vườn, con cái lên thành phố học….Vậy nếu không ăn cắp công quỹ thì tiền đâu ra chúng nó đổi đời nhanh dữ vậy ?
Đó mới chỉ là cái nhãn tiền xung quanh mình ngay tại chòm xóm thôi, còn nghe nhìn qua tivi báo chí thì còn nhiều lắm.

                               (còn tiếp)


Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

PHẠM THẮNG VŨ : Con sóng dữ - KỲ 14



                                   
  (tiếp theo}

Nhìn anh Tấn, mái tóc có nhiều sợi bạc trên khuôn mặt dãi dầu sương gió từng trải, tôi hỏi:

- Rồi sau đó thì sao nữa hả anh? Có bị tập trung tù cải tạo không? Khi đó anh cấp bậc gì?

- Trả nợ tụi nó hơn bốn năm chứ ít gì. Tôi khi đó mới thiếu uý thôi mà còn bị vậy. Sau khi được thả, quay về địa phương bị đám công an nó trù dữ quá nên vượt biên nhiều lần mà không lọt. Giờ, ghe thoát ra khỏi nước thì tưởng đã êm nào ngờ. Số phận mình đen quá hả Vũ?

Tôi nhìn lại anh Tấn nhủ thầm: " Số anh đen, tôi cũng đâu có đỏ gì cho cam. Anh Tấn ơi! Số phần tất cả người dân miền Nam VNCH bại trận đều đen như mõm chó kể từ sau cái ngày định mệnh 30 tháng 4 năm đó " rồi tôi ngồi im, chung nỗi buồn với anh.

Chúng tôi quay trở lại chỗ nằm khi thấy có ánh đèn pha của một chiếc xe chạy gần. Tiếng xe chạy đến chỗ căn nhà chúng tôi thì chậm hẳn rồi sau đó nó bỏ chạy luôn. Có lẽ là chiếc xe tuần tiễu ban đêm. Về khuya, vài người ra ngoài nhà muốn đi tiểu nhưng tìm không thấy chỗ vệ sinh ở chung quanh. Đi đâu giải quyết chuyện cần kíp đây? Chúng tôi nhìn nhau ráng nín vậy. Trời sáng dần để thấy bên kia đường có một khu rừng nhỏ dầy đặc những cây bạch đàn. Thôi thì đành phải vào đó cho xong việc. Căn nhà cũng không có nước để rửa mặt mũi nữa. Tôi đi vòng ra bên ngoài nhà quan sát. Khu vực lính Khmer để chúng tôi trú ngụ đầy vẻ hoang phế xưa cũ với các dãy nhà trông in hệt căn cứ hải quân gần bến Bạch Đằng-Sài Gòn. Như vậy, chắc chắn nó được người Pháp xây từ rất lâu trước đây. Những con đường tráng nhựa năm xưa nay đã loang lổ những ổ gà lớn nhỏ trên mặt đường. Hai bên đường giờ mới trông rõ những gốc cây cổ thụ còn sót lại chung với những hàng cây xoài còn non tuổi.

Nơi ở mới còn tệ hơn ngoài đảo Cô Tan vì cho đến quá trưa mà chúng tôi chẳng thấy bóng dáng một người Khmer nào cả. May chúng tôi có mang theo ít bánh ngọt bisquit và nước lã đóng chai khi rời đảo nên tạm giải quyết được cái khát cái đói. Mãi đến gần chiều mới có một chiếc xe quân đội như loại xe Dodge 4 chạy đến, chở một thùng nước nóng khoảng 30 lít và một sọt nhỏ các ổ bánh mì cùng ít nải chuối chín cho chúng tôi. Theo tay chỉ của hai gã lính Khmer trên xe, chúng tôi khệ nệ khiêng các thứ đó vào nhà. Xong việc, chiếc xe chạy mất hút để mặc chúng tôi tự lo liệu với nhau. Nhìn vào sọt, bánh mì đã cũ cứng ngắc, mỗi ổ dài khoảng hai gang tay. Cả thẩy là 37 ổ. Chia mỗi người một bánh mì và phần còn lại chúng tôi chia nhỏ đều cho từng người. Chuối cũng vậy nhưng may mắn đủ hai trái cho mỗi mạng. Nước, vì không có ly cốc, ai khát cứ kê miệng vào cạnh nồi mà uống.

Từ đó cho đến tối khuya cũng chẳng thấy chiếc xe quay lại. Thêm một đêm dài qua đi. Ngày hôm sau, chúng tôi cũng phải chờ cho đến chiều mới gặp lại chiếc xe cùng hai người lính Khmer đó. Lần này, cũng một thùng thiếc đựng nước nóng tương tự nhưng cái sọt lót bằng lá chuối khiêng vào nhà thì không phải bánh mì và chuối như mọi người đã nghĩ. Đầy gần miệng sọt là các củ khoai mì khoai lang luộc chín cùng ít cá khô nướng chín. " Ăn uống kiểu gì kỳ lạ vậy ta! ". Một người trong chúng tôi hỏi và có tiếng đáp: " Cơm cho tù mà ".

Một gã lính Khmer theo chân chúng tôi vào căn nhà. Y giơ tay ra hiệu cho mọi người đứng tập trung lại gần với nhau. Lấy ra một xấp giấy từ túi vải đeo bên hông, y phân phát cho chúng tôi mỗi người một tờ. Đưa thêm cho hai cây viết mực nguyên tử, gã lính miệng nói tiếng Khmer, tay ra dấu ghi lên tờ giấy mới phát. Thấy vài người trong nhóm gật đầu tỏ ý hiểu lời nói, gã lính vội vã bỏ đi. Tai nghe tiếng xe chạy mà mắt nhìn xuống tờ giấy, tôi giật mình khi thấy hai chữ in Bản Khai to tướng ngay chính giữa cùng với những hàng nhỏ: Tên, Năm Sinh, Địa chỉ... theo thứ tự ở dưới. Bản Khai! Nơi đây đã từng giữ người Việt vượt biên bị bắt và có sự cộng tác với chính quyền CS Việt Nam.

- Họ sẽ giải giao mình cho bọn công an. Chết cả đám rồi Vũ ơi! Anh Tấn nhìn tôi ngao ngán.

Cầm tờ giấy Bản Khai trong tay, ai trong chúng tôi cũng thắc mắc ở mục ghi Quá Trình Vượt Biên rồi hỏi nhau mình phải khai như thế nào đây? Anh Tấn nói lớn cho tất cả cùng nghe với bản khai chữ Việt như vậy và nhìn các tấm giấy treo trên tường thì chắc chắn cả bọn mình sẽ gặp cán bộ Việt Cộng. Chỉ chưa biết là khi nào thôi.

- Nhớ đây không phải như hồi ở ngoài đảo Cô Tan đâu nha. Ngoài đó cán bộ Khmer ghi biên bản bằng chữ của họ. Lần này, họ đưa giấy bảo mình tự khai thì ai viết ra lời khai thế nào thì ráng mà nhớ cho kỹ để rủi công an Việt Cộng khi bắt khai lại mới ăn khớp và càng ngắn gọn ít chi tiết thì càng tốt. Anh Tấn nói thêm.

Quả là sự từng trải của người đã ở tù Việt Cộng trong nhiều năm trời. Hai cây viết mực nguyên tử lần lượt được chuyền tay. Không có bàn, chúng tôi phải dùng mặt xi măng láng ở nền nhà để đặt giấy viết. Đến lượt anh Tấn viết xong bản khai, dường như linh cảm một chia tay sắp đến với tôi và Dũng. Anh Tấn xé vỏ gói thuốc lá Apshara, viết địa chỉ của anh rồi đưa cho tôi và Dũng mỗi người một mẩu nhỏ rồi nói: " Đây là địa chỉ của anh, có dịp rảnh thì ghé xuống nhà anh chơi. Anh rất mến hai tụi em ". Tôi và Dũng cũng trao cho anh địa chỉ của hai đứa.

Như ngày hôm qua, đến chiều các gã lính Khmer mới xuất hiện. Dừng xe tắt hẳn máy, họ vẫy chúng tôi đến gần để khiêng hai thùng giấy khá lớn vào nhà. Đặt các thùng giấy nầy ngay trên mặt sàn xi măng, chúng tôi vội mở ra xem. Một thùng đầy nhóc những gói giấy còn thùng kia là các bịch nước mía đá lạnh cùng ống hút nhựa kèm theo. Hai gã lính Khmer đi theo chúng tôi lấy các gói, bịch nước mía ra đưa cho từng người một. Xong họ bỏ đi ra ngoài căn nhà đứng hút thuốc lá và trò chuyện với nhau. Tôi mở gói giấy ra xem. Cơm trắng trộn lẫn với trứng gà chiên-thịt kho-cà chua kiểu như loại cơm chiên Dương Châu trong món ăn Tàu. Chẳng có muỗng nĩa gì cả. Cứ vậy mà bốc ăn bằng tay thôi. Có tiếng người khen:

- Nay cho mình ăn ngon quá vậy ta... Cả nước mía đá lạnh giải khát nữa chứ!

Chúng tôi nhìn nhau mỉm cười. Ăn vừa xong bữa, có tiếng xe mô tô hai bánh ngừng ngay phía trước cửa. Hai người đàn ông phục sức rất gọn gàng, tay cầm cặp bước đến nói chuyện xì xào nho nhỏ với hai gã Khmer vài câu rồi cả bốn người họ bước vào hẳn bên trong căn nhà. Nhìn hai người mới đến, chúng tôi biết họ là người Việt Nam và quả đúng như vậy. Người mới đến nói giọng miền Bắc:

- Chúng tôi Vũ Văn Dũng và Huỳnh Thới Kỳ thuộc tổng lãnh sự quán Việt Namtại đây.

Mọi người trong phòng im lặng nhìn hai gã cán bộ Việt Cộng. Đảo mắt khắp lượt chúng tôi, Vũ Văn Dũng hỏi:

- Tại sao các anh lại vượt biên? Hử! Tại sao các anh bỏ nước ra đi? Nói tôi nghe.

Không ai trong chúng tôi lên tiếng trả lời. Vũ Văn Dũng xổ luôn một hơi:

- Nước nhà độc lập thống nhất từ lâu mà vẫn không chịu yên tâm lao động sản xuất. Hở ra là vượt biển vượt biên, gây xáo trộn cho xã hội. Bộ các anh nghĩ cứ sang được bên Mỹ thì bọn Mỹ sẽ coi các anh là ông nội lũ nó chắc. Ở đâu thì ai cũng phải làm mới có cái ăn nghe chưa. Chúng tôi thật xấu hổ khi gặp các anh trong tình cảnh như vầy. Hôm nay, chúng tôi đến để bảo lãnh các anh ra từ tay các đồng chí hải quân nước bạn. Nếu chúng tôi từ chối bảo lãnh, họ sẽ giam các anh cho đến chết. Các anh nghe chưa? Cũng vì tình thương đồng bào Việt Namcả thôi... Các anh đâu biết.

Nói xong, Vũ Văn Dũng mở miệng cười. Nghe giọng nói, tôi biết y gốc gác người Hà Nội.

Chúng tôi nhìn nhau trong chốc lát. Gã cán bộ Việt Cộng còn lại cất giọng miền Nam:

- Nước nhà còn nhiều khó khăn thì các anh phải thông cảm chứ. Đảng và chính phủ nào muốn vậy. Đừng vượt biên nữa nguy hiểm lắm. Các anh dùng bữa cả rồi phải không? Bản khai ngày hôm qua mọi người đã viết xong hết cả thì đưa đây ngay cho tui.

Chúng tôi lục tục gom các tờ giấy đưa lại cho hai gã cán bộ Việt Cộng. Gã người Bắc sắp xếp gọn các tờ giấy rồi y cầm đọc lướt vài tờ xong ngẩng đầu lên nhìn đám chúng tôi, nói:

- Lãnh sự quán sẽ theo từng địa chỉ ghi trong đây để gửi về địa phương thông báo sự vụ các anh. Nhưng chúng tôi biết các anh chỉ ghi láo ghi lếu cả thôi. Rồi y đọc tên một người cùng địa chỉ người đó trong tờ giấy và tiếp: " Đây nhá, thử đến ngay địa phương... rồi hỏi chính quyền xem biết liền. Có người tên như vầy thì cứ đem đầu tôi ra mà chặt. Xong, y cười hì hì, lộ vẻ khoái trá. " Làm cho có thủ tục vậy thôi. Bây giờ các anh được trả tự do cả đấy ".

Tôi và anh Tấn khẽ nhìn nhau. Đúng y boong lời hắn nói. Không ai trong chúng tôi viết đúng tên cùng địa chỉ trong tờ giấy Bản Khai. Rõ ra kinh nghiệm của một cán bộ ngoại giao Việt Cộng đã từng tiếp xúc nhiều phen với người vượt biên trên đất Khmer. Một người trong chúng tôi giơ tay, hỏi vội:

- Cán bộ nói chúng tôi được trả tự do, tôi rất mừng nhưng làm sao về được tới Việt Nam? Không ai còn đồng tiền trong người, hải tặc lột sạch hết cả.

Vũ Văn Dũng nhìn người vừa hỏi sau đó đảo mắt qua cả đám chúng tôi, y gằn từng tiếng:

- Chúng tôi không cần biết chuyện đó. Các anh sang đây được thì các anh phải về Việt Nam được. Bảo lãnh cho các anh ra khỏi đây, đã thể hiện tình cảm với các anh lắm rồi.

Nghe gã cán bộ trả lời như vậy, tôi liền nói:

- Cán bộ ơi, nghe giọng cán bộ tôi biết người gốc Hà Nội. Tôi cũng người gốc Hà Nội đây. Cán bộ nói tình thương đồng bào thì xin thương cho trót. Cố giúp chúng tôi có phương tiện để về tới Nông Pênh cũng được. Đến đó rồi chúng tôi sẽ liệu tiếp.

Nhìn tôi, Vũ Văn Dũng lắc đầu, nói chậm rãi dứt khoát:

- Lãnh sự quán không có tiền. Biết hoàn cảnh các anh chứ nhưng thực sự chúng tôi cũng không có tiền... Anh hiểu chưa!

Tay Việt Cộng miền Nam nghe hai bên đối đáp như vậy liền xen vào, giọng y nhỏ nhẹ:

- Mong các anh thông cảm. Ngân khoản của lãnh sự quán hạn hẹp lắm. Bây giờ ít có vụ vượt biên chứ trước đây hầu như vài ngày tụi tui cứ phải đi lãnh người Việt ra hoài. Thôi! Các anh ráng xoay trở làm sao đó thì làm nghe.

Tôi, anh Tấn và thằng Dũng nhìn nhau rồi kín đáo lắc đầu, thầm nghĩ cán bộ Việt Cộng nói như vậy thì hết cách. Vừa lúc, một xe tải nhà binh chạy đến và ngừng ngay ở ngoài sân phía trước căn nhà. Một lính Khmer bước xuống và ra dấu cho cả bọn chúng tôi trèo lên thùng xe. Hai cán bộ Việt Cộng vẫn đứng yên trên thềm nhà chuyện trò với lính Khmer của chiếc xe đến trước. Khi chúng tôi trèo lên thùng xe xong xuôi, xe tải nhà binh từ từ lăn bánh chạy vòng vèo trong khu vực. Đúng đây là một trại hải quân vì huy hiệu quân đội Khmer với cái mỏ neo ở chính giữa được treo trên cửa ra vào của một tòa nhà khá lớn. Nhà cửa nơi đây cùng một kiểu Pháp giống y khu hải quân tại cảng Bạch Đằng-Sài Gòn. Ba người Khmer đang đi dọc theo con đường và một trong số họ vẫy tay thân ái với chúng tôi. Đây đó, vài trẻ em Khmer chạy chơi, đùa giỡn gần các căn nhà. Khói lam từ một nhà bếp mang mùi thơm của thức ăn theo gió chiều đến tận xe chúng tôi. Hai phụ nữ, người quấn xà rông đang ngồi bên nhau trên ghế trước cửa một căn nhà dõi mắt nhìn chiếc xe chở chúng tôi chạy ngang qua. Trời bắt đầu xâm xẩm tối rồi. Gã lãnh sự Vũ Văn Dũng nói chúng tôi được trả tự do nhưng không biết xe sẽ chở cả nhóm đi đâu đây? Qua hết các dẫy nhà, xe bắt đầu ra khỏi cổng căn cứ hải quân và chạy vào vùng ngoại ô. Những ruộng lúa cùng các căn nhà sàn vách gỗ mái ngói đỏ nằm rải rác cạnh vệ đường. Nước Khmer sau hoạ diệt chủng của chế độ PolPot chỉ còn ít dân nên đất đai bỏ hoang rất nhiều. Xe vào thành phố, chạy vòng vèo trong các khu thị tứ hoặc trên các con đường với hai hàng cây tương tự như các con phố ở Sài Gòn. Các cửa tiệm đã mở đèn sáng chưng. Sau cùng, xe ngừng tại một bến xe nằm đối diện với một khu chợ khá sầm uất. Hai lính Khmer từ cabin bước xuống và ra dấu cho chúng tôi phải rời khỏi xe họ ngay. Lần lượt kẻ trước người sau nhẩy ngay xuống đất và tức khắc, xe tải nhà binh đánh một đường vòng rồi quay đầu bỏ chạy thẳng.


                                      (còn tiếp)

NGƯỜI KÉO MÀN : Tiểu thuyết kịch NHẬT TIẾN (KỲ 7 )

                                   (tiếp theo)

TRONG PHÒNG XÉP

Diễn viên sắm vai Nghĩa : Còn hơn mười phút nữa. Mình có thể ngồi  đây nói chuyện mà chẳng ai quấy rầy.
Diễn viên sắm vai nhân tình của cha Nghĩa : Em yêu anh.
Họ quấn lấy nhau. Một lát :
- Xen đầu em bị đứng trái chỗ thành ra khó diễn tả điệu bộ quá. Đáng lẽ em phải tiến lại gần cái bàn thì hợp hơn. Nhưng cái lão đạo diễn này....
- Ồ! Với cái thứ đạo diễn này thì em kêu ca là  thừa. Hắn ngu như bò!
- Em cũng cho là hắn ngu. Nhưng sao hắn hách xì xằng thế ?
- Những kẻ rỗng tuếch ở bên trong thì thường vẫn phải phô trương ra bên ngoài cái cung cách lố bịch như thế đấy!
- Em diễn xuất “được” không ?
- Ồ ! Còn phải nói. Hôm nay em “xuất thần” như một nữ diễn viên có hạng.
- Em nghĩ nếu em được thủ vai Nga thì còn thi thố được nhiều hơn.
- Còn phải nói !
- Cô ấy diễn xuất thật buồn cười. Những chỗ cần phải chơi giọng thì lại lí nha lí nhí.
- Anh cũng không chịu được cái kiểu phát âm tầm phào đến như thế. Chẳng diễn tả được cái gì hết !
- Thế thì chúng mình quả là cùng biết nhận xét.
- Cưng ơi! ...
- Coi chừng nhoè hết phấn của em.
- Mặc kệ!...
Ở phía bên  ngoài, nhà đạo diễn nhổ toẹt một bãi nước bọt lên cái phông vải rồi hậm hực bỏ đi...


                              Ở CHỖ KÉO MÀN

Thằng bé : Ông ơi! Cháu nhặt được cái  này.
Lão kéo màn  : Cái gì thế ?
Thằng bé: Đố ông biết !
Lão kéo màn: Một ổ bánh mì !
Thằng bé: Sai !
Lão kéo màn: Một gói kẹo !
Thằng bé: Sai nốt !
Lão kéo màn: Thế thì một cái mùi xoa ....
Thằng bé:  Không ! Một cái bóp phơi.
Lão kéo màn: ( trợn mắt) Mày nhặt được  ở đâu ra thế ?
Thằng bé: Của cái ông sắm vai nhân tình cái cô đẹp đẹp..
Lão kéo màn : Ông Nghĩa! Nhưng sao mày biết là của ông Nghĩa?
Thằng bé: Cháu  thấy ở trong có ảnh.
Lão kéo màn : Có tiền không ?
Thằng bé :  Có đúng một trăm rưởi.
Lão kéo màn: Đồ nói láo ! Đưa cạp quần cho tao xem.
Thằng bé: Cháu mà nói dối thì giời đánh  thánh vật.
Lão kéo màn : Thì cứ lại đây tao coi. (lão moi ở trong cạp quần thằng bé ra một tờ giấy bạc) A! Thế năm chục nào đây?  Bộ nó ở trên trời chui vô bụng mày hả? Thôi, mang trả hết cho người ta.
Thằng bé: Ý ! Ông nói dễ nghe thế. Năm chục  ấy  là do công của cháu tìm ra.
Lão kéo màn: Mày tìm ra ở đâu ?
Thằng bé:  Ở trong gậm ghế phòng hóa trang.
Lão kéo màn: Vậy càng không được! Người ta thuê rạp thì phòng ấy cũng là phòng của người ta. Mày đâu có quyền vào đấy mà dám nói là nhặt được.
Thằng bé: Mặc kệ, đã thế thì cháu cho chuộc !
Lão kéo màn: Hừ! Đừng có tưởng ngon ăn, nghe con ! Mày cứ thử nói ra coi. Chỉ sợ vừa mở mồm ra là người ta đã gô cổ mày vào tù rồi. Mày có biết về tội gì không? Họ cho là mày ăn cắp !
Thằng bé: Ý ! Ông lại còn chơi thế nữa !
Lão kéo màn: Ai thèm chơi với mày. Mày nói là nhặt được ai tin ?
Thằng bé: Thôi thế cháu cho ông năm chục này. Còn bao nhiêu cháu quẳng trả lại chỗ cũ .
Lão kéo màn: Tao không lấy !
Thằng bé: Vậy cháu lấy nhé.
Lão kéo màn: Cái đó mặc kệ mày. Nhưng coi chừng họ bắt được thì ốm đòn đấy con ạ.
Thằng bé toét miệng ra cười. Nó chạy vụt đi. Một lát, nó lẻn vào phòng hóa trang quăng cái bóp vào gậm ghế.


                        PHÍA CÁNH GÀ BÊN PHẢI

Nhà đạo diễn : Xong chưa? Xong chưa ? Quá mười lăm phút rồi.
Chuyên viên sân khấu : Khổ quá! Còn thiếu đứa bé. Đáng lẽ giờ này thì người đem cho thuê phải bế nó đến rồi.
Nhà đạo diễn: Ồ ! Bò thật ! Thế thì bò thật !
Nhà Mạnh Thường Quân : Tôi nghĩ rằng cái đó là tại ông !
Nhà đạo diễn: Ô hay! Sao lại tại tôi được nhỉ ?
Nhà Mạnh Thường Quân: Đáng lẽ ông phải dự phòng trước một con búp bê thay cho nó, tại sao ông không nghĩ tới từ trước. Ông ỷ y quá.
Nhà đạo diễn: Trời ơi ! Thực là nhục nhã cho giới kịch nghệ nói chung khi mà có một thứ  ý kiến dự phòng ấu trĩ như thế được đem ra bàn cãi.
Nhà Mạnh Thường Quân: Thì đấy, bây giờ đứng mà nhìn nhau. Ông là người không biết lo xa gì hết cả. Ở đó mà nói chuyện kịch nghệ.
Nhà đạo diễn: Thế này thì tức thật. Nhiệm vụ của tôi chỉ là phải để tâm đến những việc lớn lao, tại sao ông lại bắt tôi đi vào những tiểu tiết ấy nhỉ.
Nhà Mạnh Thường Quân: Chính những cái tiểu tiết ấy mới là quan trọng đấy ông ạ. Ông đã từng “dạy” tôi như thế mà !
Nhà đạo diễn: A! Ra ông cũng thù dai gớm nhỉ. Nhưng tôi xin nói cho ông biết, quan trọng hay không là ở những người dưới quyền của đạo diễn với nhiệm vụ mà họ đã được giao phó. Họ không làm xong thì là tại họ chứ  tại sao ông lại chỉ đổ lên đầu có một mình tôi ! Ông phải biết, đối với những nhà đạo diễn ngoại quốc thì một lệnh là một lệnh! Ra lệnh rồi là kể như xong. Còn người ngợm của ông giao cho tôi...( giơ hai tay lên trời)  Ố.. là.. là...
Nhà Mạnh Thường Quân: Hừ ngoại quốc! Ngoại quốc ! Lúc nào ông cũng đem cái ngoại quốc của ông ra hù dọa tôi. Ông phải biết là ông đang ở đâu chứ. Ngày nào cũng húp nước mắm mà cứ tơ tưởng đang uống sâm banh ở Paris.
Nhà đạo diễn : Ê! Này! Tôi nghĩ rằng ông đã đi quá phạm vi của ông rồi đấy nhé. Ông đã dám dẫm chân lên lãnh vực nhận thức của tôi là không có được. Nếu ở địa vị ông thì tôi chỉ biết nhắm mắt bỏ tiền ra và thu tiền vào. Như thế sẽ dễ chịu cho ông hơn.
Nhà Mạnh Thường Quân : Vậy ra ý ông muốn ám chỉ rằng tôi không am hiểu gì về văn nghệ hết phải không. Thật tôi chưa hề gặp một ai kiêu căng và thiển cận  đến như ông cả.
Nhà đạo diễn chưa kịp sửng cồ lên thì một chuyên viên sân khấu đã chạy ào vào, giọng hớt hải.
Chuyên viên sân khấu : Thôi, thôi,  thưa các ngài, bây giờ tôi xin các ngài giảiquyết cho vấn đề đứa bé. Không có đứa bé thì tôi biết làm sao đây? Hay là ...hay là ...ta bỏ qua có được không ?
Nhà đạo diễn dẫy nẩy lên như vừa dẫm phải một con rắn sau khi nghe cái lời đề nghị bá láp ấy. Lập tức cơn giận nhà Mạnh Thưòng Quân còn đang lùng bùng trong đầu, liền được ông ta trút ngay xuống đầu anh chuyên viên.

Nhà đạo diễn:  Cái gì? Ông vừa mở mồm ra nói cái gì? Ông định bỏ cái gì? Bỏ thằng bé ấy hả ? Ông có định xỉ nhục tác giả hay không đấy ?
Chuyên viên sân khấu: Chết nỗi. Sao ông lại gán cho tôi cái ý nghĩ ấy !
Nhà đạo diễn: Hừ ! Tôi không ngờ ở trên đời này lại có kẻ liều lĩnh đến như ông được.
Chuyên viên sân khấu: Vậy thì tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi!
Nhà đạo diễn:(to giọng, quả quyết) Nhân danh đạo diễn, tôi tuyên bố chưa có đứa bé thì chưa được mở màn !
Nhà Mạnh Thường Quân:(càu nhàu) Hừ, sáng tác cái chó gì mà lôi cả trẻ con lên sân khấu. Nào nó có tội tình gì !
Nhà đạo diễn: (Cười rất nhạt)
Nhà Mạnh Thường Quân: Mà cái ông tác giả ấy đã đến cho chưa ?
Chuyên viên sân khấu: Từ chập tối chẳng ai  thấy mặt  ông ấy  đâu cả !
Nhà Mạnh Thường Quân: Con khẹc !
Chuyên viên sân khấu: Chao ôi, nếu ông ấy chịu khó ghé lại một tí thì có phải nhẹ nhõm cho chúng tôi biết bao nhiêu không.
Nhà đạo diễn: Vậy ra tôi không đủ thẩm quyền thay mặt cho ông ấy ở đây hay sao ?
Chuyên viên sân khấu: Tôi xin lỗi ! Tôi  không có ý định nói như thế.
Nhà đạo diễn: Tôi tin rằng dù có mặt ở đây thì ông ta cũng không bao giờ chịu thay đổi cái gì đâu.
Nhà Mạnh Thường Quân : Thôi, tôi van các ông, xin các ông lo hộ cho xong cái vụ này đi đã. Không lẽ các ông để cho khán giả ngồi chờ các ông đến sáng hay sao ?
Người lao công: Tôi thấy ở phía nhà sau có tiếng trẻ con khóc. Hay là các ông đi mượn thử coi sao !
Nhà Mạnh Thường Quân : Con khẹc! Có thế mà từ nãy không nói ra.
Người lao công: Thưa cụ, việc ấy đâu phải việc của tôi. Tự dưng tôi chen vào thì lại hóa mắc cái tội nói leo.
Nhà Mạnh Thường Quân: À  ra thế !


                                TRONG CĂN PHÒNG NHÀ DƯỚI

Nhà Mạnh Thường Quân: Trời ơi ! Đúng  rồi ! Tốt rồi !
Người vợ : Cái gì thế, các ông ?
Nhà đạo diễn : Xin phiền bác làm ơn cho tôi mượn đứa bé trong mười lăm phút.
Nhà Mạnh Thường Quân: Thuê! Tôi thuê đứa bé trong mười lăm phút !
Người vợ: Ông nói cái gì nghe mà lạ tai thế ? Ai đời lại có chuyện mang con đi cho thuê.
Nhà Mạnh Thường Quân: Thì nào có ai ăn thịt nó đâu mà sợ. Chỉ cần nó có mặt trên sân khấu trong ít phút thôi.
Người vợ: Cũng không được! Con tôi mới được có ba tháng.
Đạo diễn : (suýt soa) Úi ! Ba tháng thì lại càng tốt nữa. Vai trò của nó phải như thế mới đúng.
Người vợ : Thôi đi, vác nó lên sân khấu để các ông vần nó đến phát sài lên rồi tôi bắt đền ai ?
Nhà Mạnh Thường Quân: Thì thế người ta mới phải đi thuê.
Người vợ: Thuê với mượn nào có khác gì nhau. Tôi đã bảo không là không.
Người chồng: (tung chăn nhỏm dậy) Sao lại không! Cái con mẹ này lắm nhời ! Các ông cho bao nhiêu?
Nhaø Mạnh Thường Quân :Thôi, năm chục đây này, rắc rối mãi !
Người vợ: ( mắt long lên) Tôi cấm các ông mó vào thằng bé này.
Người chồng: Xin các ông cứ bế đi. Nó dở hơi, mặc mẹ nó. Năm chục đâu ?
Nhà Mạnh Thường Quân: Đây! Tôi trả tiền trước rồi đấy nhé. Không có giấy biên nhận nhưng các ông làm chứng giùm..( dúi tờ giấy bạc vào tay người vợ)
Người vợ:( hất ra) Tôi không thèm lấy! Tôi cũng không cho ai mó vào con tôi !
Người chồng: (quát) Này, có im mẹ nó cái mồm đi không. Bộ tưởng các ông ấy đem ăn thịt mất con à. Bằng ngần ấy mà ngu như con chó.( xông lại giật tờ giấy bạc trên tay nhà Mạnh Thường Quân).
Đạo diễn : Để tôi bế nó lên. Này ông chuyên viên, xin ông tìm cho một cái lót sạch.
Chuyên viên sân khấu:Trên ấy làm gì có tã lót.
Đạo diễn : Ồ ! Sao mà lại bò như  thế. Kiếm  mảnh vải nào mà chẳng được. Nhớ là phải mầu trắng ấy nhớ! Tã mà lị!
Chuyên viên sân khấu :Vâng ạ! Vâng ạ! Vải trắng thì sẽ có ngay. Xé tấm biểu ngữ ra, thiếu gì !

Mọi người xúm xít quanh thằng bé. Anh lao công đi trước dẹp đường. Nhà đạo diễn bồng thằng bé trịnh trọng đi giữa. Nhà Mạnh Thường Quân vẻ mặt hớn hở đi kèm một bên. Sau hết là vị Trưởng Ban điều khiển sân khấu. Cả bọn, chẳng có ai thèm bận tâm đến ở phía sau lưng họ hai vợ chồng nhà kia bắt đầu nổi lên tiếng cãi cọ, xô xát. Rồi thì đến những cú đấm đá nhau, nghe huỳnh huỵch.

Đạo diễn:(hớn hở) Đấy, các ông xem, nếu tôi không “đuya” một chút thì làm gì có thằng bé này, vở kịch làm gì có sự  linh động tuyệt vời, cứ y như là chuyện thực trên sân khấu ấy.
Thấy không ai hưởng ứng, gã cúi xuống  hôn chùn chụt lên má đứa bé. Thằng bé vụt  òa lên khóc.
Nhà Mạnh Thường Quân (quát)  Ông làm cái gì thế ! Bịt ngay mồm nó lại. Chưa lên sân khấu mà đã khóc toe ra  thì còn kịch cọt cái con mẹ gì nữa !
Bàn tay sần sùi của nhà đạo diễn vội đặt lên mồm thằng bé. Tiếng khóc im bặt !

                                  (còn tiếp)



Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014

nhà văn ĐỖ PHƯƠNG KHANH - Chuyến hải hành may mắn - Hồi ký





Turn off for: Vietnamese
Khoảng 10 giờ sáng ngày 11 tháng Tư năm 1980, tôi ra khỏi nhà lần cuối. Đó là mái ấm gia đình, nơi che mưa nắng cho chúng tôi biết bao nhiêu năm trường, nơi đã cùng khóc cười với chúng tôi, chung với chúng tôi biết bao nhiêu kỷ niệm của cuộc đời. Ở đó, chúng tôi tạo dựng ''Nhà in và nhà xuất bản Huyền Trân'', cùng với ông Nguyễn Hùng Trương, chúng tôi phát hành tuần báo Thiếu Nhi của tuổi trẻ. Vào những ngày Chủ Nhật và nghỉ lễ, căn nhà đó vang rân tiếng cười của hàng trăm độc giả, tới vui chơi, đọc sách, điều hành Tủ sách Gia đình Thiếu Nhi, đói thì chạy lên bếp lục cơm nguội chan xì dầu ... ôi ... biết bao nhiêu ánh mắt sáng ngời, tâm hồn trong sáng đã tỏa rực rỡ dưới mái, ngoài hè, ngoài sân của căn nhà đó.

Nước mắt lưng tròng, tôi chào từ biệt bố mẹ, trong lòng cảm thấy như đây là lời chào vĩnh biệt vì vốn được nghe kể về số phận không may của nhiều ghe đã chìm sâu vào lòng đại dương. Bố tôi đang ngồi, tôi đứng sau lưng bóp hai vai bố, thấy rung rung, có lẽ bố đang thổn thức nghĩ "biết có còn gặp lại nhau chăng?". Vì phải giữ bí mật cho cuộc trốn chạy nên ngoài bố mẹ tôi, trong nhà không còn ai biết. Các con tôi lẻ tẻ từng người đã ra khỏi nhà như đi làm và đi học, không khác ngày thường.

Sau 9 ngày gian nguy lênh đênh trên biển, chúng tôi may mắn đã tới được bờ biển Mã Lai. Ngày 12 tháng 10, chúng tôi tới Mỹ, cả gia đình đoàn tụ tại tỉnh Portland, tiểu bang Oregon, nơi con trưởng của chúng tôi vượt thoát từ năm 1975 thuê 1 căn apartment tiện nghi cho bố cháu đã đến Mỹ trước chúng tôi mấy tháng, nay cùng chúng tôi gộp lại là đoàn tụ toàn thể gia đình.

Tháng 2 năm 1987, chúng tôi cũng bảo lãnh được bố mẹ tôi qua đoàn tụ với chúng tôi. May mà chúng tôi đã dời từ tiểu bang Oregon về miền nam California, cho nên bố mẹ tôi đã thích hợp ngay được với khí hậu ôn hòa tại đây. Bố tôi qua đời tháng 12 năm 1990, tức là được hưởng không khí tự do tại Mỹ gần 4 năm, mẹ tôi mất năm 2002, tức là mẹ tôi sống tại Mỹ 15 năm vui vẻ thoải mái với các con cháu, thưởng thức phim bộ và thỉnh thoảng giải trí với các cụ cao niên mấy trò chơi như tổ tôm và bài chược, minh mẫn với tinh thần hài hước phong phú cho tới khi mẹ tôi qua đời, hưởng thọ 97 tuổi.

Cảm ơn tất cả những ân nhân đã giúp gia đình chúng tôi tới được bờ tự do an toàn.

Cảm ơn tất cả những đất nước và con người tử tế tại các quốc gia đã cưu mang chúng tôi trong những ngày bơ vơ, rời khỏi quê hương, lang thang vô định.

Cảm ơn đất nước Hoa Kỳ đã đưa vòng tay ra ôm lấy chúng tôi, đã giúp đỡ chúng tôi những ngày đầu ngơ ngác bước vào một xứ sở lạ lẫm, nhìn ra chung quanh chỉ thấy những con người với hình dáng xa lạ, nhưng lại có những ánh mắt ấm áp, đã dìu dắt chúng tôi từng bước hội nhập vào một thế giới mới nhưng đầy ắp tình người.

Bây giờ ngồi đây gõ keyboard, tôi muốn thắp nén hương lòng, quay về quê hương xa xôi của tôi, nước mắt lưng tròng, trước nhất tôi muốn dâng lên lời cảm tạ sâu xa nhất từ đáy lòng, cảm tạ liệt vị Tiền Nhân Tổ Tiên đã hun đúc cho tôi giữ được niềm tự hào là một người Việt Nam xứng đáng với danh dự của một con người.

Sau Tiền Nhân Tổ Tiên, tôi muốn dâng lên lời cảm tạ sâu xa tới những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, dù đã qua đời hoặc còn sống, qu‎ý‎ vị đã xông pha trận mạc, hy sinh thân mạng để giữ cho đất nước Miền Nam được sống tự do hạnh phúc suốt trong mấy chục năm trường, từ 1954 cho tới 1975, trước khi Saigon sụp đổ.

Xin cảm tạ, muôn vàn cảm tạ.
Đỗ Phương Khanh
***

Cảm ơn đất nước Mã Lai và đảo Pulau Tengah

Nơi ghe tỵ nạn của chúng tôi vào được đất liền là đảo Pulau Tengah, cảnh và người đều vô cùng đẹp và tốt lành. Dù tôi chỉ ở đó khỏang trên 5 tháng, từ 20 tháng Tư đến đầu tháng 10 năm 1980 thì mẹ con chúng tôi được đưa qua Sungai Besi chờ chuyến bay để đi Mỹ đòan tụ với gia đình, nhưng trong tâm khảm tôi chưa bao giờ quên những ngày xa xưa ấy, những ngày mà các bạn đồng cảnh ngộ đã cùng chúng tôi ngọt bùi an ủi lẫn nhau tại hòn đảo nhỏ, vọng về quê hương xa tít mù khơi, hòn đảo đó tên là Pulau Tengah thuộc nước Mã Lai Á (Malaysia).
***
Tôi xuống ghe SS56 vào ngày 11 tháng Tư, lái ghe là anh Hùng, một học trò cũ của bố xấp nhỏ nhà tôi tại "bãi đánh” gần Bà Rịa (hình như thuộc Phước Tuy). Đi được 7 ngày thì thấy Singapore, đáp vào tưởng ngon lành, ngờ đâu lính tuần duyên lái tầu tuần chạy ra nhảy xuống ghe bảo bọn tôi phải vào “Trại” ở phía bên kia. Bọn này hí hửng yên chí qua được “phía bên kia” là sẽ lên bờ, một cô vui vẻ trẻ trung còn “hồ hởi phấn khởi” cười nói:

- Tới trại mình tót ra đi nhảy.

Ai cũng vui quá, lúc đó là khỏang 6 giờ chiều. Tụi lính ròng dây chão từ tầu của họ xuống ghe mình bảo là để đi cho nhanh.

Nhưng cứ thấy đi mãi mà chưa thấy “Trại”... Đương lúc cả bọn băn khoăn thì mấy tên lính Singapore nhảy xuống bảo đưa la bàn và bản đồ cho họ, xong họ cho thêm dầu vào ghe mình rồi nhảy lên tầu của họ ném thực phẩm xuống, chặt đứt dây, chỉ tay về phía nào đó bảo là phải đi Indonesia kẻo họ bắn. Rồi tầu họ bỏ chạy. Ghe tụi mình đuổi theo, họ quay lại bắn lia chia. Tài công sợ quá vội chạy dạt ra.

Qua ngày hôm sau bà con thấy la bàn và bản đồ đã mất, bọn mình thất vọng quá nhao nhao bàn quay về Thái Lan. Tôi bèn tới chỗ Hùng ngồi đề nghị:

- Hùng à, chú là học trò của Thày, tôi trông cậy vào chú. Nay chú nghĩ tình thày, đi tới thêm 1 ngày, nếu còn vô vọng thì tôi không yêu cầu gì nữa.

Hùng khẳng khái:

- Em đi với cô thêm đúng 24 tiếng, nếu không còn hy vọng thì em quay lại.

(Hùng ơi, cô hết lòng cảm ơn em, đã trên ba chục năm trường, chưa bao giờ cô quên tấm lòng của em đã vì nghĩ tới thày mà nghe theo lời cô yêu cầu. Em ở Na Uy, có khi nào đọc được những dòng này, nhớ liên lạc với thày cô em nhé).

Nhắc đến chuyện này tôi xúc động lắm, muốn khóc.

22 tiếng đồng hồ sau, vào lúc 4 giờ chiều, ghe chúng tôi gặp một ghe đánh cá người Mã Lai. Chúng tôi vẫy, họ xáp lại, một người bên ghe chúng tôi nhảy qua thảo luận, họ đòi cho họ 2 nhẫn vàng, chúng tôi vội giao ngay, họ bèn chạy ghe họ phía trước, chúng tôi theo sau. Khỏang một lúc lâu, trời gần tối, xa xa chúng tôi nhìn thấy dẫy lều màu xanh nhạt, họ chỉ chỉ ra hiệu rồi đưa tay lên cổ ý nói đó là trại tỵ nạn họ không dám giúp chúng tôi tới gần hơn, sợ lính chặt cổ.

Chúng tôi biết đã thóat chết, chắp tay vái chào họ rồi tài công cho ghe từ từ đi vào, tới gần bờ chúng tôi nhảy xuống nước lội. Trong trại cử người ra đón.

Thóat chết.

Trại đó nhỏ, gồm Bắc Đảo, Trung Đảo và Nam Đảo. Hồi cao điểm là năm 1978, do phong trào đi bán chính thức, có lúc chứa tới trên 10 ngàn người. Khi chúng tôi tới là năm 80, người ta đã đi định cư gần hết, chỉ còn khỏang 3 ngàn thôi. Tôi còn nhớ có gia đình hai bác Đào Đức Hoàng và bà ngọai là mẹ bác gái hiền lành tốt bụng, có BS Phan Hồng Huấn và 2 cô con gái rất xinh và nhiều người hiền lành tốt bụng lắm.

Vì lúc ấy đảo còn ít người nên Cao Ủy Tỵ Nan muốn các cháu bé ổn định sự học. Nhân thấy lý lịch tôi khai là giám đốc trường Mẫu Giáo ở Saigon, họ yêu cầu tôi ra mẫu bàn ghế Mẫu Giáo rồi họ sắp xếp ban thợ mộc trong đảo đóng bàn ghế cho các cháu ngồi, để tôi có thể cùng hai cô giáo tiếp tục sự học của các cháu.

Có một kỷ niệm tôi nhớ mà cứ cười hòai, số là có một em còn nhỏ xíu mà rất hay chửi thề, huấn luyện mãi không được. Một bữa tôi dọa:

- Con mà nói bậy nữa madame sẽ mách ba con.

Cậu bé cười toe:

- Ba cũng nói vậy à ... hihi ..

Bác Hoàng giỏi tiếng Anh, làm Trại Trưởng, mở lớp dạy tiếng Anh mini trong lều của bác. Do sự siêng năng của gia đình bác nên tuy gọi là “lều” chứ coi cũng khá tươm tất nên mới có đủ chỗ cho chúng tôi ngồi. Bác dạy rất kỹ, luyện giọng rất nhuần nhuyễn, bắt “học trò” nhắc lại nhiều lần.

Âm giọng bác theo tiếng Anh vì hồi trước 75, ở trong nước chúng ta vỡ lòng tiếng Anh bằng mấy bộ Anglais Vivant Bleu và Beige..., nên phát âm kiểu Anh (thí dụ như giọng thái tử Charles). Bác bắt uốn lưỡi, nhấn giọng rất cẩn thận. Trong đám “học trò” bọn tôi có cả bà ngọai vì bà rất hiếu học. Một bữa bác dạy kỹ quá, đòi bà nhắc đi nhắc lại, nhấn giọng, uốn lưỡi mãi, bà giận đứng phắt lên, đi một hơi ra đường, chúng tôi sợ xanh mặt.

Bà rất hiền và tử tế. Hôm chúng tôi mới nhập trại, được phát cho một căn lều trống hốc trống huếch, vì khi người ở trước đi định cư thì những người còn lại cứ việc vào căn lều hoang “dọn dẹp”. Bà thấy mấy mẹ con tôi bơ vơ, bà thương cảm, bèn cùng các cháu đi lượm những miếng nylon, những bao bố, mảnh ván khắp nơi về vá víu căn lều cho ấm cúng.

(Bà ngọai và gia đình bác Hòang ơi, ĐPK và các con xin muôn vàn cảm tạ quý vị).

Lều của chúng tôi sát biển, chúng tôi thường lội xuống rửa chân. Có một đêm nước biển tràn lên quét luôn đám nồi niêu bếp núc của chúng tôi đi, sáng dậy thấy rải rác lền khên trên bờ biển.

Có người kể với chúng tôi là nghe đồn mấy năm trước vào lúc cao trào đi bán chính thức, Mã Lai lúc đó chưa có quy chế chấp nhận người tỵ nạn nên có một số ghe đã táp vào bờ rồi nhưng lại bị tầu tuần lôi ra, kéo nhanh quá nên chìm, chết từng mấy trăm người một. Sau đó, vào những đêm mưa gió biển động, nhiếu hồn ma hiện lên trên biển khóc than thê thảm lắm.

Nhưng ĐPK tôi và các con thì chưa ai chứng kiến những chuyện đó bao giờ.

Có lẽ tôi cần trình bày sơ qua về địa hình đảo Pulau Tengah. Theo tên gọi Bắc đảo, Trung đảo và Nam đảo thì có vẻ như là 3 đảo hoặc 3 khu vực, nhưng thực tế chỉ có nghĩa là phần phía Bắc hoặc ở giữa (Trung) hoặc phía Nam của đảo Tengah mà thôi.

Vào thời kỳ có phong trào ra đi bán chính thức thì người tỵ nạn lúc đó phần lớn là dân Chợ Lớn, gốc Hoa, vốn giầu có và là những người tiên phong vào đảo, cho nên họ được chia nơi tạm trú ngay tại Bắc đảo, là sát với cầu tầu, dân tỵ nạn từ ghe leo lên cầu là bước chân vào Bắc đảo.

Nhờ dân tỵ nạn gốc Hoa tiền bạc rủng rẻng và đôi khi cũng có những liên hệ bằng hữu với dân Mã Lai gốc Hoa bản xứ nên đời sống cũng dễ chịu, đảo Tengah cách đất liền 1 giờ rưỡi đường tàu thủy nên ghe thương lái đem sản phẩm vào bán cũng được lính gác Mã Lai du di, cho nên hoặt động nơi Bắc đảo vui vẻ tấp nập, tạm ví như khu phố Lê Lợi ở Saigon.

Trung đảo là tên gọi để chỉ khỏang cách giữa Bắc và Nam đảo chứ không có người ở. Thực tế, Trung đảo là một cái đèo nhỏ vươn lên hơi cao chia đôi Bắc và Nam đảo, đỉnh đèo vươn cao nhìn thẳng xuống lòng biển nên thỉnh thỏang có một vài cậu thanh niên ra bờ vực nhảy plongeon xuống biển. (Sau này khi chúng tôi đã rời đảo, nghe bà con sang sau kể lại rằng có một cậu trai đã nhẩy từ mỏm đèo Trung đảo, lao xuống biển chẳng may gặp đá ngầm, vỡ sọ mà qua đời).

Tuy gọi là “đèo”, nhưng chỉ lên xuống dốc sơ sơ thôi, mấy mẹ con chúng tôi thường rủ nhau ra đó leo lên đèo qua phía bên kia rồi lại leo về để tập thể thao.

Nam đảo là khu an tịnh, lều trại sơ sài vì mỗi khi có người được đi định cư thì bà con lại “cải thiện đời sống” bằng cách tiến lên thừa hưởng những tiện nghi bỏ lại. Mẹ con chúng tôi đến sau, khi trại đã gần vãn tuồng, nên được giao cho căn lều gần cuối Nam đảo, trấn thủ con đường độc đạo đi ra dãy phòng “Thủy tạ Nhẹ Khỏe” bắc chênh vênh trên biển, trống thiên trống địa.

Lều tôi có ba cô nhóc từ 14 đến 17 rất là nghịch ngợm, sáng sáng các cô bắc ghế đẩu ra điểm danh tình trạng sức khỏe của bà con Nam đảo và kiểm tra dân số đi hàng một qua lều, tay mỗi người phe phẩy mảnh giấy báo. Có hôm tôi nghe la tóang: “Mẹ ơi Chế Linh”, tôi cũng thấy “phấn khởi”, bèn quơ dép phóng ra phía trước, thì quả nhiên thấy có một đám bụi mù tràn qua, Chế Linh đi trước, theo sau là một dẫy bà con cười đùa ồn ào, mỗi người đều có mảnh giấy báo hộ thân (kể cả danh ca Chế Linh ... hihi ...).

Đảo Tengah rất nhỏ và đẹp nên sau khi giải tán trại, nhà nước Mã Lai sửa sang thành khu du lịch. Tôi hỏi thăm thày Gu Gồ kiếm được mấy hình



Mời click vào link xem thêm nhiều hình:

http://www.refugeecamps.net/TengahStory.html

Nói chuyện tỵ nạn mà quên một vai trò quan trọng thì thật là ... tội lỗi... tội lỗi ... Đó là vai trò mà tất cả dân tỵ nạn chúng ta không thể không có và không thể quên, nhân vật đó là “bông-xoa” (sponsor, người bảo lãnh), ở đảo chúng tôi không nói tiếng Anh phiền phức mà cứ gọi là “bông-xoa”.

Những người có thân nhân ở ngọai quốc thì không phải lo vì đã có thân nhân bảo lãnh. Trường hợp không có thân nhân ở ngọai quốc thì chỉ trông mong thần may mắn dun dủi, gặp được “bông-xoa đại nhân” đàng hòang mà thôi.

Tôi không biết gì nhiều về các quy chế tỵ nạn, hành chính linh tinh, chỉ buồn vui theo gương mặt những bạn láng giềng trên đảo sau những buổi bà con được Cao Ủy Tị Nạn phỏng vấn. Và tôi cứ nhớ mãi cụm từ “bông xoa lủng”. Đó là trường hợp những người đã được báo tin là có sponsor rồi , nhưng bỗng sau đó lại được tin sponsor từ chối không bảo lãnh nữa. Hòan cảnh chúng tôi lúc đó rất thất thế... chờ đợi ... chờ đợi rồi chẳng may thất vọng thì ... rất buồn.

Nhưng đời không bắt ai phải buồn hòai, ngòai niềm mơ ước vĩ đại là được sớm đi định cư, chúng tôi cũng có những niềm vui nho nhỏ, đó là vào mỗi Thứ Tư, chúng tôi được tầu thủy nhỏ của Cao Ủy ghé qua mang theo thư gửi tới cho chúng tôi và nhận thư của chúng tôi viết cho thân nhân để gửi giúp chúng tôi.

Lều tôi tận cuối Nam đảo nhưng loa phóng thanh vẫn vọng tới. Những ngày đó chúng tôi vui vẻ tưng bừng chờ đợi từ sáng, khỏang 2 giờ chiều thì có tiếng rọt rọet thử loa, rồi tiếng gọi tên vang lên ... ui da... chúng tôi rất vui vì tuần nào cũng có thư.

Tầu đưa thư đồng thời cũng tiếp tế đồ ăn tươi cho chúng tôi. Mỗi tuần khẩu phần mỗi gia đình chúng tôi trung bình có chừng nửa con gà nhỡ nhỡ, dân Mã Lai nhiều người theo đạo Hồi không ăn thịt heo cho nên họ không phát thịt heo, chỉ có gà thôi. Chúng tôi cũng được phát mấy trái cây và mấy mớ rau.

Thịt gà thì tôi kho mặn, cũng ngon lắm. Nhưng rất vui là một bữa kia có ghe nhập trại, trên ghe có nhà công nghệ giò chả Phú Hương. Vừa mới nhập trại một tuần, ông đưa ra ý kiến: "Ai muốn ăn giò gà thì ông chế biến giúp cho”.

Thế là chúng tôi ùa nhau giao thịt cho ông làm thành giò sống để nấu canh và chiên lên thành “chả gà chiên”, ăn ngon tuyệt... Cảm ơn ông Phú Hương.

Nhân nói đến “thịt”, tôi lại nhớ cái ngày ghe chúng tôi bị tầu tuần Singapore lôi ra biển, trước khi chặt đứt dây chão từ ghe chúng tôi nối vào tầu lớn, họ ném xuống cho chúng tôi rất nhiều đồ hộp, và nói ra qu‎ý‎ vị đừng cười, họ ném xuống cả một bịch giấy cuộn để đi vệ sinh (nôm na là đi cầu), ui da, chúng tôi còn bụng dạ nào mà đi đâu cho nổi!!!

Thế rồi chỉ hai ngày sau chúng tôi vào được Mã Lai, thịt hộp còn nguyên. Khi lính tuần duyên Mã Lai xuống lục sóat, việc đầu tiên là họ ném tuốt luốt tất cả những hộp thịt xuống biển... ui da ... tiếc ơi là tiếc ...

Tôi lại mới nhớ ra một việc, phải cảm ơn cậu Trưởng ban Tiếp Tân tốt bụng. Khi ghe chúng tôi cập bến, cậu cùng lính tuần duyên Mã Lai nhẩy xuống đầu tiên. Chỉ sau một cái liếc, cậu nói giọng rất nhẹ:

“Bà con cất bớt vàng đi, họ sẽ thu lại để giữ giùm, nhưng cất trong mình vẫn chắc hơn”.

Thế là trong khi lính còn lục sóat kiểm tra thì mấy bà bạn đồng hội đồng thuyền của tôi đã tẩu tán không còn dấu vết.

Nếu không có cậu nhắc nhở thì vài quý bà khá giả đi trên ghe chúng tôi không biết có còn được đeo dây chuyền và lắc vàng loang lóang nữa chăng, quý bà ngây thơ hồn nhiên mà có vị còn mang cả dưa leo để đắp mặt bảo vệ da khỏi bắt nắng trên biển, chao ôi, vị nào tình cờ đọc tới đây thì cười xòa mà đừng giận tôi nhé, nhưng quả thật chúng ta đã quá may mắn đấy ạ.


                                                                                                 Đỗ Phương Khanh