Nhà thơ Lý Phương Liên, ngôi sao vụt sáng trên bầu trời thi ca thời …”nay ở trong thơ nên có thép”. Nhưng thơ LPL không có thép, lại có …nước mắt con người. Bởi vậy sau những bài nổi đình đám “ “Ca bình minh”, “Em mơ có một phiên tòa”, “Lời ru với anh”, “Về người cha đã khuất”…đến mức nhà thơ Huy Cận đã bẻ gãy cây bút trước sự ngỡ ngàng của Lý Phương Liên để tỏ ý bái phục cô gái trẻ, đến bài “ Nghĩ về Thúy Kiều” thì Lý Phương Liên lâm nạn. Lập tức cả một đám bồi bút xúm vào đánh hội chợ . Nào câu từ chưa phù hợp, quá bi lụy, nào đây là thơ…Lê Đạt mượn tên Lý Phương Liên (!) viết những dòng ai oán .
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy là phu quân Lý Phương Liên mới xuất bản “99 khúc tặng Liên”, xin mời quý vị đọc 3 khúc do tác giả chọn.
069. Mưa Seattle
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa qua kinh thành cổ tích của tôi
Biến phố đường thành những khúc sông trôi?
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa qua cây gạo làng tôi
Nghe trong mưa tiếng cò con gọi mẹ đứt lời?
Mở lòng đi mưa
Đám mây nào vừa mưa trước cửa nhà tôi
Em gánh mưa về cong vẹt bờ vai
Mưa Seattle không đáp
Giọt dài nhanh chân nước trôi
Giọt ngắn vội vội cười
Mở lòng đi mưa
Sao mưa Seattle thơm ngọt thế
Môi mềm hoa cỏ nếm mưa
Mở lòng đi mưa
Sao ở quê tôi giận chi mưa mặn thế
Mặn như từ biển lên mưa ?
Mở lòng đi mưa
Nguyện cầu tôi có điều gì chưa phải
Chuông mõ thế nào mưa?
Mưa Seattle đột ngột tạnh
Dư âm vọng một tiếng wow
Mưa nơi nao chẳng giống nơi nào…
Vội vàng níu mưa
Mưa không mưa nữa mưa đi xa rồi
Chuông mõ chìm trong tiếng wow
Mưa nơi nao chẳng giống nơi nào…
068. Lời tóc cỏ lau
Lời yêu thủ thỉ thì thầm
Kìa em trăng sáng góc sân bụi hồng
Sáng gì sao lại cong cong
Cong cong trăng sáng tận lòng Thái Âm
Mới hay trăng sáng thì thầm
Gió ôm trăng nói gió cầm trăng đi
Gió trăng say đắm đôi khi
Tình rì rầm kể xanh thì cỏ lau
Cỏ lau cười lắt lay đầu
Sông lăn tăn sóng thoa bầu vú trăng
Em em ơi vội tình Hằng
Bờ môi nhím thủ thỉ thầm bờ môi
Một người tỏ yêu nhiều lời
Một người đáp lẳng lặng cười dâng trao
Đêm nào trăng chẳng gương cao
Soi trăng mà đón tình vào vườn yêu
067. Nam mô Tết
1
Mẹ bảo dù đi đâu ở đâu trong cõi âm gian
Ba ngày tết cũng lội về dương gian con cháu
Quất đào ríu rít xuân sao mẹ vẫn chưa về
Cả cha nữa cũng chưa về?
Con bươn bả chạy ra triền sông Cái
Chào gặp bao nhiêu hồn mà không thấy cha đâu
Con xõa tóc cỏ lau thỉnh mẹ
Mẹ hiện về mưa bụi hoa cau
“Năm nay dương gian cầu xin nhiều quá
Cá vàng thả đỏ sông quê
Lửa hóa vàng cháy sôi bến nước
Cầu nào cũng nức nở, xin nào cũng khóc than
Phật Quán Thế Âm đành phá luật chịu tội
Hạ thủy thêm thuyền Bát Nhã độ chúng sinh
Hồn cha con được gọi về chèo thuyền
Trực biển
Công việc âm gian hư không như vỏ hến
Năm này mất Tết, con ơi!”
Con xuống tóc hoa lau làm đứa trẻ lên mười
Để những lời cầu xin càng bé bỏng
Na mô Phật nam mô thuyền nam mô sóng
Con ăn nóng uống rét suốt năm
Chỉ chờ ba ngày tết
Rước mẹ cha về cho con có mẹ cha
Độ chúng sinh là việc Trời việc Phật
Cát hung cứu giải hà sa
Cớ sao Tết không độ cho nhà nhà sum họp
Không cội nguồn thì đâu còn là Tết
Xin ban cho con phúc mỏng dẫu ba ngày
Nguyện này Nam mô hay là không Nam mô?
Trời bỗng nhiên vần vũ gió cờ
Phật mở ngực bắc những cầu giải yếm
Vẩy nước phúc tiễn hồn cập bến
Tôi đón cha mẹ tôi trong nô nức hồn về
Tạ ơn Trời, Nam mô Phật
Ban cho dương gian
Tết thái hòa sum họp
2
Đem chăn nắng về quê ăn Tết
Xin mưa thật phùn bấc thật buốt
Để chăn ôm mưa rét đem theo
Đắp ấm lòng tha hương hun hút
3
Bể đời mang mang thả ngư cầu long
Nếu cá được hóa lên trời làm rồng
Xin cho mưa mừng nắng vui cá nhé
Nếu cá được hóa xuống đất
Xin cho bếp nhà nhà đỏ lửa
Nếu cá được hóa thành quả thành hoa
Xin nở vào ngực mẹ môi em
4
Nam mô..
Thôi Tết ở lại quê
Tôi đi miền mưa nắng
Cam Canh cứ vàng cho thắm yếm
Bưởi Diễn cứ ngọt cho son môi
Mặt Tây Hồ cứ hoan run rẩy sóng
Đào cứ phai về gốc luân hồi
Giếng Đường Lâm cứ vơi đầy năm tháng
Sông Cái cứ xuôi thuyền cỏ mật tỉnh mê…
Nam mô, thôi Tết ở lại quê
Tôi đi miền mưa nắng
Thơ cứ thả lên trời cho Văn Miếu ấm
Chữ ông đồ cứ đóng oản đồ xôi
Nhương Trần cứ chấm com lời đen trắng
Cỏ hoa khuây khỏa phận người
Quyền Văn Minh cứ thổi nhạc lên trời
Hoa Sữa chữ tình thương giận
Nam mô Tết..
Xin đừng tội nghiệp thân tôi
Tuổi già lẫm chẫm
Còn võng theo mưa phùn rét đậm
Tha hương
Tràng hạt lần tay mò mẫm
Thăng hồn gõ mõ tụng chuông
Nam mô Tết
Xin hiện về Tấm Cám quê tôi
Tết Nhâm Thìn 2012
Sự thăng hoa và bút pháp hiện đại trong
"99 khúc tặng Liên"(*)
Nguyễn Minh Khiêm
Mới. Lạ. Mở. Gợi. Dạt dào cảm hứng. Ý tứ mênh mang. Chữ như mây vỡ. Rất thực mà ảo. Rất ảo mà thực. Tình chắp cánh cho trí bay lên. Trí làm cho tình găm lòng người ở lại. Ông viết như mê. Ông viết như say. Ông viết như không. Ông viết như chơi. Không khuôn mẫu. Không lập lại. Biến hóa. Sáng tạo. Sáng tạo mà không cứng. Nhuần nhuyễn. Đầy chất thơ. Đầy chất thi sĩ. Đó là cảm nhận bao trùm nhất khi đọc “ 99 khúc tặng Liên” của nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy.
“ 99 khúc tặng Liên” mỗi khúc là một tâm trạng. Mỗi khúc là một gửi gắm. Mỗi khúc là một góc nhìn, trải nghiệm, suy ngẫm. Dù ông “Nam mô trời”, ông “Nam mô đất” hay “ Nam mô người”, dù ông “ Viết trên giường bệnh”, “ Bất ngờ Picasso”, “ Tụng trăm ngày bạn” hay ông viết “ Lục bát chiều”, “ Từ Thức bơ vơ”…Khúc nào cũng da diết nỗi đời, nỗi người, nỗi nhân tình thế thái. Phải trường cảm xúc, trường vốn sống, từng trải, giàu trí tuệ, hiểu thơ mới, sâu thơ cũ mới đọc được thơ ông. Ông có nhiều câu thơ đẹp. Hãy đọc những câu thơ này của ông: “ Tóc lau ngồi nín cời than” ( …); “ Xin mẹ hãy nghỉ tay dệt nắng/ …/ Xin mẹ về đầu cầu dải yêm” ; “ Xin cha cưỡi thuyền cỏ mật/ Về lại bến quê Sông Cái Mỉm Cười” ( Tụng trăm ngày bạn ). Đẹp đến sững sờ. Đọc một lần cứ muốn đọc lại. Dưới con chữ có cái gì đó ngời lên lấp lánh. Dư âm không hết. Hệt như uống chén trà ngon. Cạn chén rồi mà cổ họng cứ ngọt mãi.
Cùng mô típ ấy, trong bài “ Nam mô Tết”, ông viết: “ Thơ cứ thả lên trời cho Văn Miếu ấm/ Chữ ông đồ cứ đóng oản đồ xôi”. Thơ ông giàu có về hình ảnh. Hình ảnh này gọi hình ảnh kia. Hình ảnh chồng lợp lên nhau, giao thoa nhau. Một tầng. Hai tầng. Nhiều tầng. Câu chữ sống động. Sự biểu cảm phong phú. Đa thanh. Đa sắc. Nó như một bức tranh trừu tượng, ấn tượng, siêu thực. Cảm được cái hay. Cảm được cái đẹp. Nhưng chỉ ra từng cái hay cụ thể, chỉ ra từng đẹp cụ thể thì khó. Tách bóc ra từng lớp lang ý nghĩa, từng lớp lang nghệ thuật thì khó. Cách viết của ông không giống ai. Không gồng lên. Không cố tạo khác biệt. Ấy thế mà trộn vào đâu cũng không lẫn. Rất khác biệt. Có người cả đời muốn tạo được dấu ấn riêng, muốn được thấy cái thằng mình đứng riêng ra nhưng lại cứ nhập nhòa trong bóng người khác. Nhưng “99 khúc tặng Liên” của Nguyễn Nguyên Bảy có nhãn mác, có hương vị đặc trưng riêng biêt. Thơ ông bốn tiếng có. Năm tiếng có. Lục bát có. Vắt dòng, leo dòng có. Tự do có. Thơ văn xuôi có. Nó không tách bạch nhau. Nó lồng quện trong nhau. Hình như ông không định vị chữ, không định vị câu. Ông để cho con chữ tự do bung nở. Câu là chỗ tận cùng sung mãn của chữ. Nếu đọc không kỹ, ta rất dễ cho rằng ông dùng chữ dễ dãi, đôi chỗ nôm na, câu lỏng, ý không chặt, trục logic mờ. Nhưng nhìn lại tổng quát 99 khúc trong tập mới thấy khả năng làm chủ ngôn ngữ tuyệt vời của ông. Nó tung tẩy. Nó nhảy múa. Nó bay lượn. Nó lặn hụp. Nó làm chủ mọi góc độ, làm chủ mọi hoàn cảnh. Tất cả chuyển động mãnh liệt, chặt chẽ quanh một cái trục logic duy nhất là tâm hồn ông, xúc cảm của ông. Nó liên kết bởi logic tâm hồn ông. Tất cả ngôn ngữ, hình ảnh, giai điệu chuyển động quanh cải trục vĩnh cửu của thi ca ấy.
Không thấy ông tuyên ngôn gì về thơ. Chỉ có hai câu thơ văn xuôi đầu tập và thỉnh thoảng điểm lại ở một trang nào đó như một lời đề Từ “ Trả lại hết sướng vui nạn ách. Chuyền tay chữ hát xuống thuyền. Thung thăng ngược bến cỏ non../ Là khi anh nói về em. Bông hoa trước cửa tự nhiên nở bùng. Trên cành một giọt sương rung. Gió nhẹ vô cùng thổi mãi không rơi”…Cách hành văn này, kết cấu này, lập ngôn này chi phối toàn bộ “ 99 khúc tặng Liên”. Đậm nhất là bảy khúc “ Nhật ký Seattle”. Nói là lạ hẳn thì không lạ hẳn. Nói là quen thì không quen hẳn. Câu thơ vừa có phong vị đồng dao, vừa có phong vị ca dao tinh tế trong Quan Họ bắc Ninh, vừa có cái suồng sã mộc mạc duỗi dài thể thơ sáu tám của những điệu vọng cổ Nam Bộ. Từng chữ thì rất Việt. Nhưng thiết chế ngôn ngữ lại rất Tây. Nếu không thẩm thấu thơ văn xuôi của Hàn mặc tử, không thẩm thấu các trước tác của Franz KafKa, không thẩm thấu Thơ Dâng của Rabindranat Tagore tôi tin, Nguyễn Nguyên Bảy không viết được bảy khúc Nhật Ký Seattle thăng hoa với bút pháp hiện đại thế. Tôi cứ bị hút vào những câu thơ thế này : “ Đêm trắng, nghĩa bóng trắng như tờ giấy. Thổi chữ vào giấy. Thổi chay./ Không ra văn vần không ra văn xuôi. Chỉ thấy chữ múa chữ hát chữ hôn chữ làm tình chữ gục đầu chữ khóc/ Hello những chữ là chữ. Đầy một hồn. Nghĩa đen là đầy một óc/ Thế mà sáng hoe sáng hoe chỉ còn thấy duy nhất một từ Hello em” ( Hello! )/…/ “ Trời Seattle trong như nước mắt. Nắng Seattle lịm như rượu vang. Gió Seattle thơm như hồn hoa. Giôn bật nói. Chúng ta không bao giờ (nevơ) hello chiến tranh. Nevơ. Nevơ…/…/ Bát canh cần từ Việt nam sang thưa với bố chồng, con là họa sĩ. Con muốn vẽ nước Mỹ của chồng con chỉ bằng một chữ hello”( Hello). Câu thơ như một nốt nhạc có dấu trường ngân. Nó không phải là thứ phù hợp với ca sĩ đoản giọng.
Đọc bảy khúc Nhật ký Seattle của ông chạm được vào nhiều thứ. Tình yêu có. Tình người có. Tình đời có. Nhân văn có. Văn hóa có. Niếm tự hào dân tộc có. Nước Mỹ có. Châu Phi có. Châu Âu có. Châu Á có. Người Việt Nam tha phương có. Đành rằng Nhật ký Seattle cái vỏ là ghi chép, là tốc ký cái những giác quan nhạy bén nhất của ông chớp được, nhưng nhiều câu nhói lắm. Nhói cho cả một dân tộc: “ Tôi nhặt từng hạt buồn còn vương trong mắt em. Xếp cẩn thận những hạt buồn vào bị cói. Đeo lên vai…”/…/ Lạc lõng chưa, chúng tôi đến chợ vai quảy bị cói hạt buồn”./…/ “ Than thở chỉ vừa lóe đã thấy cô gái da trắng, tóc vàng phủ bờ vai nõn, nhìn chằm chằm mắt vợ tôi nài nỉ xin đổi hạt buồn/ Để làm gì? Để đêm nay, sau một ngày hội hè vui đẫm, tôi có chốn nhớ về buổi chiều đen thẫm ấy, buổi chiều định mệnh tôi xuống tàu chạy trốn Vacxava tìm đến thiên đường Mỹ. Chỉ những hạt buồn mới giúp tôi trở về gặp lại tiếc buồn đánh mất hôm qua”. Và nẫu nuột khi trong lòng trống rỗng, ông buông một câu “ Buồn là đặc sản Việt cớ sao ông bà đem ra chợ trời rao bán?”/…/ “ Còn ngươi, ngươi đã sỉ nhục cây đàn cò vốn sinh ra cho người khiếm thị, lạy ông đi qua lạy bà đi lại, xót thương kẻ mù lòa, ngươi sáng mắt, ngươi còn tay còn chân, ngươi còn lưỡi, vậy mà ngươi lại mượn nỗi buồn đui mù hèn hạ đổi lấy chất dư thừa thương hại./ . Nhị xẩm cúi đầu câm lạnh”. ( Bán buồn ở Chợ Trời Seattle”. Đó là những câu thơ thức tỉnh không chỉ một con người. Nó động đến cả một dân tộc.
Ông không tuyên ngôn nhưng hình như với ông, niêm luật vần điệu chặt chẽ truyền thống cũ là tĩnh; thể thơ bốn, năm, bảy tiếng nghiêm túc , bất biến là tĩnh. Ông không chấp nhận cái tĩnh, không chấp nhận cái công thức, cái khuôn mấu, khuôn mẫu đến mòn vẹt, đến nhàm chán, đến bảo thủ. Cuộc sống rất động. Tình yêu rất động. Tự nhiên rất động. Tâm trạng, nỗi niềm con người rất động. Thơ cũng phải rất động. Quan trọng hơn tất cả là, ông có cái nhìn rất động. Chính cái nhìn rất động ấy giúp thơ ông không lập lại, không bất biến, không xỉa vào vết xe người khác.
Ngay đọc tên tập thơ “ 99 khúc tặng Liên” ta cứ tưởng cái tên Lý Phương Liên, nhà thơ, người vợ yêu quý của ông sẽ tràn ngập câu chữ như cái tên Ensa tràn ngập trong thơ Aragon. Nhưng không. “99 khúc tặng Liên” là ông tặng trọn vẹn tâm hồn ông, trí tuệ ông, ký ức ông, sự chiêm nghiệm tinh túy, sự thăng hoa của ông. Đấy cũng là một độc đáo.
Thanh Hóa. Ngày 22.12.2012
(*) NXB Văn Học ấn hành 10.2012
Bài Nguyễn Minh Khiêm/ Tác giả gửi bài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét