Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

GẠC MA - MÓN NỢ LỊCH SỬ CUẢ "KẺ THÙ...TRI KỶ"

                
                 
                                                           
       Ngày 14-3-1988, cậy thế lực lượng đông gấp bội , Trung  Quốc tàn sát dã man 64  chiến sĩ hải quân ta , tay không ôm giữ cột cờ dưới bãi đá ngầm Gạc Ma . Nhân kỷ niệm 24 năm món nợ lịch sử này, tôi có cuộc trò chuyện xoay quanh đề tài “ Trung Quốc – là bạn hay là thù ?” với nhà văn , tiểu thuyết gia lịch sử Hoàng Quốc Hải
Nhật Tuấn: Thưa anh Hoàng Quốc Hải, vừa qua trong diễn văn khai mạc “Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết T.Ư 4”, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có nói “Đảng cộng sản Trung Quốc… trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh không để bị “Tây hóa”, “tha hóa”, “thoái hóa”.  Tuy nhiên các ông tổ cộng sản đều là các ông Tây “mắt xanh mũi lõ”. Vậy phải chăng Trung Quốc xúi Việt nam xa rời chủ nghĩa Mác-Lê- nin?
Hoàng Quốc Hải: Thưa anh Nhật Tuấn, đầu năm nhẽ ra phải nói chuyện du xuân thì anh lại gợi chuyện thời sự. Thật ra nói chơi với nhau cho vui thôi, chứ cái chủ đề này thì ai còn lạ gì đâu.
Trước hết phải thừa nhận một điều rằng, Đảng cộng sản Trung Quốc chưa bao giờ theo chủ nghĩa Mác cả. Tới nay thì điều này cả thế giới đều biết, có nhẽ chỉ có một bộ phận nhân dân Trung Quốc còn nghi hoặc thôi.
Nhưng trong quá trình vận động cách mạng, ông Mao Trạch Đông lãnh đạo nhân dân Trung Quốc nhằm lật đổ chế độ Trung Hoa Dân quốc do ông Tưởng Giới Thạch đứng đầu, thì ông Mao lại dựa vào Liên Xô và tuyên bố theo chủ nghĩa Mác, treo ảnh các ông Các Mác, Ăng -ghen, Lê- nin, Stalin và cờ búa liềm. Việc dựa vào Liên Xô là để gây vốn liếng chính trị và cũng là để nhờ vả về nhiều mặt, trong đó có chuyện vũ khí. Nhưng tất cả chỉ là mẹo, là kế của ông Mao thôi. Việc này người Trung Hoa là bậc thầy của thiên hạ. Hãy xem Việt Vương Câu Tiễn dùng khổ nhục kế như thế nào thì đủ rõ.
Nhưng nói cho cùng kỳ lý thì người Nga và cả Liên bang Xô-viết cũng có theo Mác đâu, họ theo chủ nghĩa Lê-nin đấy chứ.
Sự sụp đổ của Liên bang Xô-viết là sự sụp đổ của chủ nghĩa Lê-nin, còn học thuyết Mác với công trình đồ sộ của ông là “Tư bản luận” thì làm sao mà sụp đổ được.
Và họ khuyên không “Tây hóa” tức là để họ độc quyền theo Tây đấy ông Nhật Tuấn ạ. Ông có nhớ năm 1972, ta đánh Mỹ đang đến hồi gay go nhất thì ông Mao Trạch Đông phát tín hiệu mời ngoại trưởng Hoa Kỳ là ngài Kít-xing-gơ đến Bắc Kinh để mở đường cho công cuộc Trung Hoa ngả vào lòng nước Mỹ. Rồi năm 1978, ông Đặng Tiểu Bình sang Mỹ với quà biếu là mấy con Gấu trúc. Và để hòa nhập, ông Đặng dùng trang phục cao bồi, cỡi ngựa rong ruổi khắp nước Mỹ để kết thân với Mỹ, mời Mỹ vào Trung Hoa. Và từ khi người Mỹ vào Trung Hoa tới nay thì nước Trung Hoa thay đổi hẳn như ta thấy.
Điều này chứng tỏ Đảng cộng sản Trung Quốc theo Tây trước các nước trong phe chứ. Hẳn mọi người còn nhớ, ngài Đặng Tiểu Bình từng tuyên bố: Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột. Bản chất vấn đề là ở chỗ đó. Tức là họ theo chủ nghĩa thực dụng. Cho nên việc họ theo Liên Xô hay theo Mỹ đều là “kế” cả thôi.
Chủ nghĩa thực dụng là sở trường của người Trung Hoa. Nguồn gốc của nó khởi từ Nho giáo, được Khổng Tử hoàn thiện thành học thuyết. Nước Trung Hoa có cả chục học thuyết, nhưng chỉ có Nho giáo là bao trùm và được ứng dụng từ cổ đại tới nay.
Còn như “tha hóa” và “thoái hóa” thiết nghĩ chẳng qua là một thứ đồng bệnh tương liên, bộc bạch để cùng nhau chia sẻ. Ngược lại, nếu đây là lời khuyên chân thành thì đáng trân trọng.
Nhật Tuấn: Cách nay trên 70 năm, giới tiểu tư sản Hà Nội chạy theo trào lưu “Âu hóa”, nhờ đó Xuân tóc đỏ của Vũ trọng Phụng vốn từ tầng lớp hạ lưu đã nhảy phốc lên thượng lưu danh giá. Trào lưu Âu hóa đó có gì tương đồng với “Tây hóa” mà Đảng cộng sản Trung Quốc khuyên Đảng cộng sản Việt Nam anh em phải tránh xa?
Hoàng Quốc Hải: Cái ông Nhật tuấn này hơi kỳ. Tại sao ông lại đem văn chương so với chính trị. Kiểu so sánh này chẳng khác chi dân gian đã nói: “Bì phấn với vôi…”. Ông hãy nhìn sự diễn tiến bàn cờ thế sự thì rõ thôi mà.
Nhật Tuấn: Hiện nay phim Trung Quốc tràn ngập màn hình TV, đèn lồng Trung Quốc treo khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam…thực chất Trung Quốc đang tiến hành một cuộc xâm lăng toàn diện về văn hóa. Sao ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không nhắc tới nguy cơ Hán hóa mà lại lo “Tây hóa” trong khi Đảng vẫn chủ trương hội nhập toàn cầu?
Hoàng Quốc Hải: Thưa anh Nhật Tuấn, trong thế giới phẳng hiện nay việc xâm thực hay xâm lược văn hóa là thể hiện một thứ quyền lực mềm. Về mặt xâm thực văn hóa của Trung Quốc ngoài phim ảnh, tôi có thể bổ sung thêm, ví như thị trường sách. Nếu anh ra bất cứ một tiệm sách nào trên toàn quốc đều thấy số đầu sách dịch từ nguồn Trung Quốc chiếm tới trên dưới 40% thị phần sách lưu hành. Điều đáng buồn là một khối lượng không nhỏ trong đó là sách thần bí. Loại này trước đây thuộc diện tuyệt đối cấm. Ngoài ra thượng vàng hạ cám, không thiếu một loại sách nào của người Tầu từ thượng cổ đến vừa ra lò vài tuần mà không có trên thị trường sách nước ta. Rất nhiều loại tiểu thuyết đương đại nhà văn Việt Nam thừa sức viết, nhưng nếu có viết ra cũng không được công bố loại những  tác phẩm tương đương với những tác phẩm đương đại của Trung Hoa mà ta phải dịch, như các tác phẩm “Nửa đàn ông là đàn bà” của Trương Hiền Lượng, “Báu vật của đời” của  Mạc Ngôn, “Thị trấn phù dung” của Cổ Hoa… để bù vào nhu cầu khát đọc của độc giả. Có thể lấy ví dụ như “Truyện kể năm 2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, “Thời của thánh thần” của nhà văn Hoàng Minh Tường…Đáng tiếc chúng đã không được phép lưu hành hoặc chỉ được xuất bản một lần.
Nhật Tuấn: Vì sao trong Chỉ thị của Bộ chính trị “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” hoàn toàn không nhắc gì đến hai chữ “nhân dân”?                     Vậy phải chăng công tác chỉnh đốn Đảng”chỉ thuộc “nội bộ Đảng”? Nếu vậy, điều mà Bác Hồ vẫn dạy là “quan điểm quần chúng” ngày nay có còn không?
Hoàng Quốc Hải: Bác Nhật Tuấn ơi, bác không đọc kỹ lời ông Tổng bí thư sao. Trong đó có chỗ ông nói: Đa số (ý nói các đồng chí lãnh đạo và đảng viên) là tốt, một số không nhỏ (cũng nói về lãnh đạo và đảng viên) là tha hóa, biến chất. Vậy là Đảng chỉ chỉnh đốn cái đám tha hóa, biến chất, tham ô, hủ hóa làm hại dân và làm mất thanh danh của Đảng, chứ Nhân dân thì làm gì có quyền lực để dính đến cái sự xấu xa ấy mà phải chỉnh đốn. Thôi chuyện này là chuyện nội bộ của Đảng, miễn bàn. Còn như nhờ nhân dân giám sát đảng viên, chắc Đảng phải ra một nghị quyết khác.
Nhật Tuấn: Mấy ngày vừa qua Trung Quốc vừa bắn phá tầu của ngư dân Việt Nam vừa đặt bút ký nội dung thỏa thuận cấp thứ trưởng hai nước diễn ra tại Bắc Kinh trong hai ngày 27 và 28 tháng 2. Mặc dù Trung Quốc vẫn leo lẻo “đưa quan hệ hai nước tiếp tục phát triển ổn định, lành mạnh, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ổn định và hợp tác của khu vực và thế giới”, nhưng lại lờ chuyện xung đột trên biển Đông  đi, chỉ nhắc tới phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển… Phải chăng đó là thủ đoạn câu giờ chờ thời cơ lấn lướt ta để độc chiếm biển Đông?
Hoàng Quốc Hải: Nhật Tuấn ạ, anh còn lạ gì người Trung Hoa, ý tôi muốn nói nhà cầm quyền thôi, còn người dân lao động thì họ cũng còn khổ lắm, thậm chí khổ hơn cả dân mình. Nhà cầm quyền Trung Hoa từ cổ xưa tới nay vẫn nói một đường làm một nẻo. Sự nhãn tiền như họ khủng bố tầu đánh cá của ngư dân ta, rồi họ lại chối phắt. Nếu như quay được băng video, mà về phương diện ngoại giao ta phản kháng gay gắt thì họ liền đổ lỗi cho địa phương Hải Nam hoặc Quảng Đông làm sai, rồi dàn hòa, rồi hứa không tái diễn… để lại tái diễn. Đó là đường lối muôn thuở của họ. Vì vậy trong tiểu thuyết lịch sử tôi đã viết: “Ta với họ không chỉ là kẻ thù truyền kiếp mà còn là kẻ thù tri kỷ”. Điều quan trọng là đối sách của chúng ta kia. Đương nhiên phải mềm dẻo một chút, không làm mất mặt “thiên triều”, nhưng phải kiên quyết, phải cứng rắn không cho phép “thiên triều” đụng đến cái lợi ích cốt lõi của ta, cụ thể là lãnh thổ, là lãnh hải, là ngư trường và các tài nguyên khác.
Còn chuyện Biển Đông đúng như anh tiên lượng: “Đó là thủ đoạn câu giờ, chờ thời cơ lấn lướt ta để độc chiếm biển Đông”. Đúng là họ đang phục kích lâu dài chờ cơ hội kiểu như năm 1974 chiếm Hoàng Sa và năm 1988 cướp Gạc Ma (thuộc Trường Sa) của ta. Nếu ta lơ là mất cảnh giác vì không chuẩn bị đầy đủ sức mạnh để sa cơ một lần nữa, sẽ phải trả giá đắt, phải ân hận tới ngàn năm mà vị tất con cháu đã tha thứ.
Nhật Tuấn: Xin anh cho biết vì sao vấn đề đàm phán về Biển Đông, phía Trung Quốc cứ nhăm nhăm đòi giải quyết song phương mà rất sợ đa phương? Phải chăng Trung Quốc đang chơi xảo thuật bẻ từng chiếc đũa?
Hoàng Quốc Hải: Thưa anh Nhật Tuấn, nếu là chuyện minh bạch thì đàm phán song phương hay đa phương có hề hấn gì. Khốn nỗi về mặt pháp lý quốc tế người Trung Hoa không có một khía cạnh hợp pháp nào trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Về Hoàng Sa thì họ ngoạm một phần vào cuối năm 1956; sau Thế chiến II, Trung Hoa dân quốc chiếm một phần từ quân Nhật thua trận (nay thuộc Đài Loan). Phần còn lại họ dùng vũ lực cưỡng chiếm từ quân đội Việt Nam cộng hòa vào năm 1974. Về Trường Sa, họ dùng vũ lực chiếm đóng đảo Gạc Ma của ta vào năm 1988 và sát hại 64  bộ đội công binh, tay không vũ khí. Cả hai trường hợp cưỡng chiếm này đều là hành vi xâm lược. Bởi các quần đảo này ta đã xác lập chủ quyền, và quản lý liên tục từ thế kỷ 18 tới nay, không hề có một quốc gia nào tuyên bố chủ quyền hoặc tranh chấp với ta cho đến trước năm 1949, nghĩa là trước khi có nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Vậy nếu ta nhận đàm phán song phương với họ, coi như ta thừa nhận họ có chủ quyền. Và như thế có nghĩa là họ từ tư thế bất hợp pháp chuyển sang tư thế hợp pháp. Còn nếu như đàm phán đa phương, có đại diện của Unclos làm trọng tài, đương nhiên họ không đủ tư cách pháp nhân để tham gia đàm phán, còn nói gì đến chuyện chủ quyền.
Nhật Tuấn: Anh viết tiểu thuyết lịch sử, hẳn có tìm hiểu kỹ về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta, còn tôi thì tựa như thi sĩ vừa quá cố Đỗ Nam Cao đã viết:
                              “Trường Sa ư với ngày thường xa thật
                               Đảo ở đâu tôi có hỏi đâu mà
                               Điều khốn nạn là chỉ khi máu đổ
                               Đảo mới gần mới thật của ta”
Cho nên dù đã tìm đọc các tài liệu, tôi vẫn chưa thật thỏa mãn, tôi muốn anh giải thích: Vì sao cả ta và Trung Quốc đều khẳng định hai quần đảo đó thuộc chủ quyền của mình không thể tranh cãi. Phía ta thì các tài liệu để chứng minh chủ quyền khá phong phú, nhưng phía Trung Quốc chỉ thấy họ trưng ra cái bản đồ 9 đoạn hình lưỡi bò, liếm gần hết biển Đông, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và quyền chủ quyền của nhiều nước. Điểm thứ hai họ trưng ra bằng lời nói chứ không có bản đồ và văn bản cổ là họ đã chiếm hữu vùng biển Đông này từ thời nhà Hán, nghĩa là đã cách đây hơn 2200 năm chứ không phải chỉ có khoảng 3 thế kỷ liên tục chiếm hữu và tuyên bố chủ quyền như phía Việt Nam mình. Nếu có thể được, anh diễn giải giùm chuyện này để mọi người cùng tham khảo.
Hoàng Quốc Hải: Tôi xin chia sẻ với anh cũng như tuyệt đại đa số người Việt Nam, hễ biết liêm sỉ đều có nỗi xót xa ân hận bởi trách phận công dân ấy. Điều quan trọng nhất lúc này là mọi người phải chung tay giữ lấy mảnh giang sơn từng thấm máu ngàn đời gồm vùng đất vùng trời và biển đảo của chúng ta.
Phần bàn về đàm phán song phương, tôi đã nói về chủ quyền hợp pháp của chúng ta về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nay tôi nói rõ về cơ sở pháp lý của cái quyền chủ quyền ấy.
Về xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa thì sách “Phủ biên tạp lục” của nhà bác học Lê Quý Đôn soạn vào năm Bính thân (1776 ) đời Lê Hiển tông tương đương thời chúa Nguyễn Phúc Thuần ở Đàng trong. Về Đảo cát vàng tức Hoàng Sa, sách ấy viết “Phủ Quảng Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển phía Đông bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn nọ sang hòn kia đi một ngày hoặc vài canh thì đến. trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy… các thuyền ngoại phiên (nước ngoài) tránh bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn (ý nói các chúa Nguyễn ở Đàng trong) đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng Hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá và lấy hóa vật của các tầu đắm… Đến kỳ tháng 8 thì về, vào Cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp”.
Ở một đoạn khác Lê Quý Đôn lại viết: Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan Chánh đường huyện Văn Xương, Quỳnh Châu (đảo Hải Nam) gởi cho Thuận Hóa nói rằng: “Năm Kiền Long thứ 18 (1758) (tương đương với thời chúa Nguyễn Phúc Chu ở Đàng trong) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, ngày 7 đến Vạn lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để hai tên giữ thuyền, bị gió giật đứt dây thuyền, dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đây xét thực, đưa về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thúc Lương hầu làm thư trả lời”.
Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, phần núi sông của tỉnh Quảng Ngãi cũng viết: “Đảo Hoàng Sa ở phía đông nam cù lao Ré huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ đi thuyền ra, thuận gió thì độ ba bốn ngày đêm có thể đến nơi. Có tới hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc một ngày đường hoặc mấy trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng…” (phần còn lại sách này viết giống như Lê Quý Đôn đã viết trong “Phủ biên tạp lục”).
Sách Đại Nam viết tiếp: “Đầu đời Gia Long (1802) phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa…
Đầu đời Minh Mệnh thường sai người đi thuyền công đến đây thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1070 trượng ( bằng 3,5 km ) cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ ‘vạn lý ba bình’ (muôn dặm sóng yên ). Về phía tây bắc đảo này nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là đảo Bàn Than.
Năm Minh Mệnh 16 (1836) sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu mốc và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau…”.
Các sách “Đại nam thực lục chính biên”, “Đại Việt hội điển sự lệ”, “Khâm định việt sử thông giám cương mục”v.v… Rất nhiều di tích đền đài thờ tự “Hải đội trường sa” còn tồn tại với thần phả, tộc phả, gia phả, đặc biệt là vô số các châu bản do đích thân nhà vua hoặc các quan địa phương sai phái người ra vạn lý Trường Sa hoặc Hoàng Sa làm công vụ từ thời các chúa Nguyễn đến tận thời vua Bảo Đại còn lưu giữ trong các kho tư liệu quốc gia, thậm chí trong các nhà dân cũng còn khá nhiều chứng tích về “Hải đội Hoàng Sa”. Đó là các độc bản, chứ các phó bản thì nhiều vô kể (trong đó có nhiều loại bản đồ và các số liệu đo đạc) về Hoàng Sa, Trường Sa còn lưu giữ trong thư viện Viện Hán – Nôm, trong các thư viện của Paris (Pháp) mà trước đây “Viễn Đông Bác cổ học viện” sưu tầm và hoàn thiện rồi lưu trữ khá công phu.
Chính quyền nhà Nguyễn quản lý và khai thác hai quần đảo này cho tới khi thực dân Pháp xâm lược nước ta thì nhà nước thuộc địa Pháp tiếp thu và quản lý rất chặt chẽ. Bằng cách đo đạc, vẽ bản đồ, lập trạm đo khí tượng v.v…Năm 1899 Paul Doumer toàn quyền Đông Dương cho xây dựng một ngọn hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa.
Khi nước Pháp thua trận năm 1954, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, từ vĩ tuyến 17 trở vào nam thuộc chính quyền Việt Nam cộng hòa quản lý, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc xâm lược chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa như phần trước tôi đã trình bày.
Về cái lý không tranh cãi của Trung Quốc họ trưng ra cho thế giới biết cái bằng chứng hư vô là họ đã quản lý vùng biển đảo này từ thời Hán, Đường đến Minh, Thanh. Từ cổ xưa tuyệt nhiên không có sách nào của Trung Quốc nói đến vùng biển đảo phía đông này và cũng không có một tấm bản đồ cổ nào của Trung Quốc vẽ về vùng biển đảo phía đông này trong đó có dấu ấn Hoàng Sa, Trường Sa, kể cả Trịnh Hòa thời nhà Minh đi vòng quanh thế giới có vẽ khá nhiều bản đồ, cũng không hề có sự hiện diện của hai quần đảo này.
Chứng tích vu vơ thứ hai là tấm bản đồ do chính quyền Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch tự vẽ năm 1947 có chứa đường 9 đoạn mà ngày nay Trung Quốc coi như một bằng chứng lịch sử sáng giá.
Một văn bản khác là tuyên bố năm 1958 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về định nghĩa lãnh hải của Trung Quốc và họ phát triển hóa yêu sách này vào luật của nhà nước Trung Hoa cỡ năm 1992.
Thật ra đường lưỡi bò 9 đoạn do Trung Hoa dân quốc tự vẽ và tuyên bố về đường lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về mặt pháp lý quốc tế đều không có giá trị.
Còn cái chứng cớ cù nhầy mà Trung Quốc ngộ nhận từ đời Hán, Đường, Minh, Thanh rằng toàn bộ vùng biển này đã thuộc về Trung Quốc , ta hãy nghe một trong 29 luật sư nổi tiếng nhất trong suốt 20 năm qua của đoàn luật sư bang California ông Tel Laguatan viết một bài báo ngày 27 tháng 7 năm 2011 với tựa đề: “Tại sao Trung Quốc không đưa vấn đề Trường Sa ra Liên hiệp quốc”.
Tôi xin trích một đoạn của ông luật sư người Mỹ này: “Nhà Hán của Trung Quốc mới có từ 206 trước Công nguyên đến 220 Công nguyên. Còn Alexandre đại đế chết năm 323 trước Công nguyên. Vương quốc của ông bao gồm Hy Lạp, Syrie, Ba Tư, Ai Cập và một phần Ấn Độ.
Đế quốc La Mã tồn tại hơn 1000 năm thâu tóm cả Châu Âu, một phần Châu Á, Châu Phi.
Vậy ngày nay hai nước Mace’donia và Italia có thể đòi lại các phần đất cũ mà đế quốc Mace’doine và La Mã chiếm đóng từ mấy ngàn năm trước không.
Nếu lý luận như Trung Quốc ngày nay thì người Mông Cổ có thể đòi lại cả nước Nga và nước Trung Hoa cùng nhiều quốc gia khác mà Thành Cát Tư Hãn đã thống trị từ thế kỷ 13-14 không?
Thói ngạo mạn của Trung Quốc lấy cơ bắp làm ngôn ngữ ngoại giao và áp đặt chính sách đối ngoại của mình buộc đối phương phải tuân thủ tựa như đường lối của bọn phát xít Hít-le hồi đại chiến thế giới thứ hai. Thế nhưng Trung Quốc luôn rêu rao là ‘trỗi dậy trong hòa bình’ và muốn làm bạn với các nước. Lâu nay Trung Quốc đã thể hiện rất kiên trì đường lối đối ngoại là cái gì họ làm với thế giới luôn luôn ngược lại với cái mà họ hùng hồn tuyên bố.
Hãy cảnh giác với Trung Quốc!”
Thật ra Trung Quốc còn lưu giữ rất nhiều tư liệu có sức “thuyết phục” toàn thế giới, nếu họ trưng ra thì ngay cả nước lên án họ về tranh chấp biển Đông cũng phải mỉm cười ưng thuận.
- Thứ nhất vào năm 1895 tàu Bellona của Đức bị vấp đá ngầm và chìm tại quần đảo Hoàng Sa, đánh tín hiệu cấp cứu mà Hải Nam không có động dạng gì. Và năm 1896 tàu Himeji của Nhật Bản cũng bị đắm ở Hoàng Sa. Cả hai tầu đều không được phía Trung Quốc cứu hộ mà ngư dân của họ từ Hải Nam còn ra cướp đồng và hàng hóa. Chính phủ Anh đã gửi công hàm phản kháng. Phía Trung Quốc tuyên bố chính thức là quần đảo này không thuộc về phía Trung Quốc. Công hàm này hiện vẫn còn lưu trữ tại thư viện Hoàng gia Anh quốc. Ngay cả phía Trung Quốc chắc cũng còn lưu giữ.
- Thứ hai là sau khi thua trận trong chiến tranh Trung – Nhật, nhà Thanh đã ký hiệp ước Shimonseiki ngày 17 tháng 4 năm 1895, phía Trung Quốc gọi là hiệp ước Mã Quan, theo đó nhà Thanh nhượng cho Nhật Bản vĩnh viễn chủ quyền đầy đủ các quần đảo Bành Hồ, Đài Loan và phía đông vùng biển của bán đảo Liêu Đông cùng với tất cả tài sản có trên đó như: công sự, kho vũ khí… Và khu vực này không bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Điều đó có nghĩa là hai quần đảo này đã không được xem là thuộc chủ quyền của Trung Hoa.
- Thứ ba trong “Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư” biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906 có ghi” Phía Nam từ vĩ độ Bắc 18013’ tận cùng là bờ biển Hải Nam (Nhai Châu) là miền đất cực nam của Trung Quốc. Và vì thế nó không có dính líu gì đến Trường Sa, Hoàng Sa.
Chứng cớ rành rành như thế mà Trung Quốc cứ ỉm đi không chịu công bố, lại bấu víu vào cái thứ lịch sử vu vơ khiến luật sư Ted Laguatan phải lên tiếng cảnh báo với toàn thế giới: “Hãy cảnh giác với Trung Quốc”.
Những đòi hỏi của Trung Quốc ở biển Đông trở nên ngạo mạn, cứ xem cái đường lưỡi bò ấy nó liếm mất khoảng 3,8 triệu km2 trong tổng số hơn 4 triệu km2 của toàn vùng biển Đông. Bởi Trung Quốc mơ ước có tới 22 tỉ thùng dầu và 200 ngàn tỉ m3 khí tự nhiên nằm ở đáy biển, cùng với bao nhiêu thứ kim loại khác sẽ giúp cho họ soán ngôi bá chủ thiên hạ.
Lòng tham khiến họ mờ mắt, chứ các nhà khoa học địa chất Mỹ và Nga dự đoán trong lòng biển Đông chỉ có từ 4 đến 7 tỉ thùng dầu là kịch mốc.
Đừng tham quá mà gây thù chuốc oán với các nước láng giềng vẫn luôn tỏ ra tôn trọng Trung Quốc. Xin các vị hãy đọc lại lời dạy của Chủ tịch Mao Trạch Đông với đoàn cán bộ trước khi sang giúp Việt Nam vào tháng 2 năm 1950.
Về mối quan hệ Trung Hoa, Việt Nam, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã kể mẩu chuyện lịch sử “Mã Viện đánh Giao Chỉ”:
 “Trong lịch sử từ đời Hán trở đi, Trung Quốc đã từng ức hiếp (1) Việt Nam, 80 năm trước chính phủ Mãn Thanh cắt nhượng Việt Nam cho Pháp (2). Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tốt, bị nước ngoài cai trị và áp bức lâu dài, họ căm thù người Pháp, rất nhạy cảm đối với người nước ngoài. Các đồng chí có thể nói với các đồng chí Việt Nam: ‘Tổ tông chúng tôi xưa đã từng ức hiếp các đồng chí, chúng tôi tạ tội và xin lỗi các đồng chí’.”
(Nguồn hồi ký của Vi Quốc Thanh đăng trong “Thượng tướng phong vân lục” NXB Đại bách khoa toàn thư năm 2000).
Từ hơn hai ngàn năm nay người Việt Nam vẫn chờ một lời xin lỗi công khai từ phía Trung Hoa! Tuy nhiên, muốn buộc đối phương xin lỗi, có nhẽ người Việt Nam phải sống khác đi!
Tạm biệt nhà văn Nhật Tuấn.
Hà Nội 18h50’ ngày 13.3.2012.
Ghi chú:
(1)  Ức hiếp ở đây phải hiểu đúng nghĩa là tàn sát dã man, vì Chủ tịch Mao muốn nói tránh đi.
(2)  Chỗ này Chủ tịch Mao hơi ngộ nhận, hiệp ước Pháp – Thanh ký là để phân định biên giới, chứ nhà Thanh có tư cách gì mà cắt nhượng được Việt Nam cho thực dân Pháp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét