Hạt bụi lấp lánh ánh sáng của đảng (!)
Ông hưởng lộc quan từ rất sớm, năm 21 tuổi đã là Tổng thư ký Hội văn hoá cứu quốc, đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của Nhà nước VN DCCH, và cũng hưởng rất lâu, năm ông mất, 79 tuổi, ông vẫn còn là Chủ tịch Chủ tịch đoàn Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Nhà nước CHXHCN VN.
Trên thế giới, hiếm có nhà văn nào làm quan suốt 60 năm, làm quan tới hơi thở cuối cùng như ông, chỉ lạ một điều, sao người ta chưa đưa ông vào Guiness. Ở nước ta, leo lên quan đầu ngành đã khó, giữ được ghế càng khó hơn , bởi thế không ai ngạc nhiên khi đứng giữa bàn dân thiên hạ, trên tivi vào dịp Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 3, ông trịnh trọng tuyên bố :
” Các nhà văn chúng ta…là những hạt bụi lấp lánh ánh sáng của Đảng.”
Thật không có một câu “văn bia” nào diễn tả thân phận văn nô hay hơn thế. Lập tức nó được các “hạt bụi” vỗ tay vỡ hội trường và “bảo hiểm” cho ông ngồi ghế quan đến trọn đời.
Chắc ai cũng biết, tác giả câu nói đáng ghi vào sử sách đó chính là nhà văn, nhà thơ, nhà sáng tác ca khúc …Nguyễn Đình Thi.
Khác với mấy “anh tiền chiến” sau cách mạng mới chịu theo đảng lên rừng, năm 18 tuổi NĐT đã bị đi tù vì hoạt động cách mạng, đã viết báo, viết văn tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, tuy nhiên theo nhận định của hai nhà nghiên cứu quốc doanh gạo cội Phan Cự Đệ – Hà Minh Đức, phải đợi tới “ngọn lửa kháng chiến chống Pháp hun đúc, tài năng văn học của Nguyễn Đình Thi thực sự mới hình thành”.
Vậy thử coi “tài năng văn học “ trong kháng chiến chống Pháp của Nguyễn Đình Thi lớn cỡ nào ?
Trong tuyển tập Truyện ngắn Việt Nam (1945-1954) của NXB Đại học, cũng do hai ông Giáo sư gạo cội Phan Cự Đệ ~ Hà Minh Đức biên soạn cho sinh viên học có tới 2 truyện ngắn của Nguyễn Đình Thi được đưa vào “bia đá”.
Truyện ngắn “Anh hùng cứ điểm” kể chuyện đồng chí Còm, đại đội trưởng đại đội 112 trong trận đánh một cứ điểm Tây ở mặt trận đông bắc. Trong đêm trước trận đánh, anh Còm tâm sự với anh Đăng, đại đội phó :” Đời mình không vui lắm. Vợ con mất cả từ ngày đói bốn nhăm. Hồi ấy mình lang thang ở mỏ. Lúc khởi nghĩa xong , vào bộ đội, đánh tây liên miên”.
Vậy là không lọt ra ngoài “phép nước”, ông nhà văn phải chọn một anh “thành phần giai cấp công nhân” làm nhân vật anh hùng cho dù hồi mới kháng chiến, hàng ngũ cán bộ đại đội phần lớn là dân…”tạch tạch sè”, “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” ( thơ Quang Dũng), có văn hoá, có tâm hồn lãng mạn và toàn xuất thân thành thị. Bởi thế đặt chân lên đò qua sông xung phong vào đồn địch, trong đầu anh Còm chẳng có “dáng Kiều” nào hết, anh chỉ nghĩ đến ‘tương lai tươi sáng của dân tộc” :” Sau này kháng chiến thành công, thế nào mình cũng phải qua bên Lào hay bên Tây Nguyên một phen…”.
Thử hỏi tại sao khi đó anh không nghĩ tới chuyện về thăm bến Sáu Kho Hải Phòng quê hương anh ?
Xin thưa ngày đó tư tưởng giải phóng cả “Việt-Miên-Lào” thành lập Liên bang Đông Dương hãy còn sâu đậm lắm trong cán bộ đảng ta. Và ông nhà văn NĐT cũng không quên điều đó khi mô tả người anh hùng, nhất là tránh xa “con người chung chung” hướng tới “con người chính trị” mới đúng lập trường văn học cách mạng.
Khi xung phong tới gần cứ điểm, theo đúng kế hoạch lẽ ra đại bác phải bắn yểm trợ, rủi thay súng lại hỏng, cả đại đội của Còm vấp phải 8 khẩu “đui sết” của Pháp cứ nằm chết gí bên bờ ruộng. Thế là đồng chí Còm xông lên diệt ổ trung liên của địch cho toàn đại đội mở hàng rào. “Bỗng một phát đại bác nổ như xé tai, Còm đứng sững lại, bơi bơi hai tay trong không khí rồi ngã vật ra…”. Trước khi hy sinh, Còm còn thều thào hỏi : ”Vào đến đâu rồi ?” và tháo cái đồng hồ đeo tay tặng chú giao liên rồi mới…chết.
Cũng na ná như nhà thơ Tố Hữu mô tả cái chết của anh Nguyễn Văn Trỗi :” Trước khi đi anh gọi Bác ba lần”, chẳng hiểu sao các văn thi sĩ cách mạng cứ buộc người ta lúc chết phải nghĩ tới chiến thắng, tới lý tưởng, tới đồng đội mà không nhớ tới vợ con, gia đình ruột thịt ? Thực sự những người lính lúc chết ra sao, có gọi Bác ba lần, có hỏi “quân ta vào tới đâu” không ? Hình như chưa nhà văn cách mạng nào nói đúng được về họ. Bởi lẽ đó là yêu cầu chính trị.
Trận đánh kết thúc, quân ta đương nhiên là thắng quân nó, cứ điểm địch đương nhiên là bị nhổ bỏ và người anh hùng nằm xuống đương nhiên là được ca ngợi :” Đời anh Còm sống chiến đấu lặng lẽ, chết hy sinh lặng lẽ…”.
Truyện ngắn “ Người anh hùng cứ điểm” được vào bia đá “văn học cách mạng” xem ra cũng chỉ là một bài ký sự “ người tốt việc tốt” với mạch kể chuyện đơn giản, tuần tự, lười nhác cả trong xây dựng nhân vật lẫn kết cấu truyện. Đó là cái giá phải trả cho việc hưởng ứng chủ trương “sáng tác kịp thời ” của Đảng chăng ?
Sang truyện ngắn “ Người tù binh da đen” , tác phẩm “tuyển” thứ hai của NĐT xem ra còn…”kịp thời” hơn nữa.
Người tù binh da đen đó là lính hầu của tù binh da trắng Thiếu tướng Đờ Cát, Tư lệnh mặt trận Điện Biên Phủ mà chẳng hiểu sao ông nhà văn lại cho rằng “Mỹ” phong cho ông mới lạ chứ . Có lẽ vì vậy mà Đờ Cát được NĐT gọi bằng “tên”, “nó”. “ Trong đoàn tù binh, giữa hai người lính hầu lúc nào cũng theo hầu hai bên nó như hai cái bóng, tên tướng Pháp cầm cái gậy ngắn của sĩ quan, vừa hút thuốc lá vừa lòng khòng đi, cái mũi dài xuống …”, “Tên Đờ Cát ngồi một mình trong cái lán, chống tay lên cái bàn nứa.Nó lột cái mũ ca lô đỏ xuống , cầm mân mê, mắt tư lự nhìn ngôi sao thiếu tướng mới đính trên cái mũ ấy, đôi môi mỏng nhếch ra một nụ cười trầm ngâm…” .
Có lẽ thấy đánh “người ngã ngựa” chẳng “quân tử” chút nào nên NĐT “tha cho” “tên Đờ cát” mà quay sang người lính hầu da đen của ông ta.
Dọc đường đi, anh tù binh trẻ luôn đeo cái ba lô thật nặng cho ông tướng bị các bạn tù khác “ném đá” và “chế giễu” nên đã trốn mất tiêu, trao nó lại cho người tù già. Bác này lại “è cổ đeo cái ba lô nặng lù lù và cuộn chăn len dầy đi sau tướng Đờ Cát về tới trạm tù binh”.
Khi“Đờ Cát được gọi đi, người lính hầu lại đeo vội cái ba lô lên vai” , nhưng lúc này anh lính Việt Nam ngứa mắt quá bèn ra lệnh cho viên tướng phải tự đeo ba lô.
“ Đờ Cát leo đến nơi, hai chân lẩy bẩy . Nó bĩu môi, vứt phịch cái ba lô xuống” .
Khi anh lính VN ra lệnh cho viên tướng Pháp mở ba lô, người tù binh da đen mới thấy rõ mình đã è cổ cõng toàn những thứ “phục vụ cho ông tướng “ :“ mấy tút thuốc lá Camen, hai chai rươự Huýt ki, ba cái bút máy Pác ke vàng , bốn năm bộ quần áo Gabácđin, ảnh của tướng Tatsinhi, một gói bạc Đông Dương dày cộm, một gói tiền vàng và nhẫn vàng, hai cái đồng hồ vàng….và nhiều thứ khác nữa…”.
Chính điều đó làm người tù binh già “giác ngộ” chính nghĩa thuộc “ bên nào ”, đêm đó ông tìm tới các chiến sĩ Việt Nam. Họ vui vẻ hỏi :
” Phini balô, phini ba lô?”.
Rồi họ lại hỏi :
” Sao anh tóc đã hoa râm thế còn đi lính cho Pháp ?” .
Người tù binh da đen cảm động chảy nước mắt kể chuyện đời mình. “ Anh là người Maroc, làm thợ mộc ở một làng vùng núi. Nhà có một mẹ già , hai anh em. Pháp đến bắt lính. Người em bỏ trốn vào rừng…Những hình ảnh quê hương xa xôi hiện lên dồn dập như gọi anh trở về nguồn gốc cũ…”.
Truyện ngắn ‘ Người tù binh da đen “ của NĐT được xếp hạng trong văn học cách mạng gói gọn chỉ có thế. Nó như một bản phác hoạ chân dung sơ sài, nặng về thiên kiến chính trị mà tính chân thực của nó còn phải chờ ý kiến xác minh của chính nhân vật trong truyện :” Tướng De Castrie”.
Vậy mà nó vẫn được khen là tìm được một “lối khác” trong sáng tác văn học đề tài ca ngợi “chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta” và là một gợi ý cho bà nguyên Cục phó Cục Điện ảnh Nguyễn thị Hồng Ngát viết nên kịch bản “Người hàng binh” tức “Ký ức Điện Biên” làm thiên hạ om sòm bàn tán vì tiêu tốn của Nhà nước cả triệu đô la mà trong dịp kỷ niệm “ chiến thắng Điện Biên Phủ ” tháng 5-2004 số người tới rạp trong mỗi buổi chiếu đếm được chưa hết mười đầu ngón tay. Tất nhiên, thất thu đó không thuộc lỗi nhà văn Nguyễn Đình Thi…
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét