Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác ( KỲ 39 )



                                                                                         nhà văn NHẬT TIẾN
                                (tiếp theo)




Anh cúi đầu rồi thở dài không nói tiếp. Mãi tới lúc trên con đường từ nhà ra bến xe buýt để tiễn chân anh về nhà người quen, nơi anh cư ngụ  trước khi quay ra Hà Nội, anh mới thổ lộ :

- Cậu nhớ cô Quy không ?

Tôi lục lọi trí nhớ rồi buột mồm:

- Quy bán vải ở đầu phố hàng Đào ẩy hả ?

Duy gật đầu :

- Gia đình cô ấy cũng bị cải tạo tư sản. Nhà cửa, tài sản bị tịch thu hết. Sau cô ấy cũng cố gắng ngoi lên và xin  được một chân cô giáo ở một  trường tiểu học ngoài ngoại ô. Chồng đi nghĩa vụ quân sự. Một nách cô ấy phải nuôi 2 đứa con nhỏ. Cả nhà cứ phải đói ăn thờng xuyên. Một lần con ốm, nhà hết gạo, nhân gặp ca trực  trường, cô ấy lẻn.vào kho tiếp liệu xúc trộm một giá gạo, bị bảo vệ phát giác. . . .

Nói đến đây bỗng Duy ngừng lại. Có vẻ anh nghẹn ngào cố trấn áp một cơn xúc động. Rồi anh lại tiếp:

- Tuy vậy nhà  trường cũng thông cảm, không kỷ luật gì. Nhưng kể từ đó, cô ấy loay hoay với chính bản thân của mình, cứ y như  cô đã là một kẻ tội đồ ngày xưa bị mang dấu ấn ở ngay giữa trán. Khi vào xúc trộm gạo thì tình mẫu tử trong cô trỗi dậy mạnh mẽ, bất chấp mọi thứ hiểm nguy, miễn lấp đầy  được bao tử của con cái mình. Đến khi bị phát giác thì lương tâm nhà giáo của cô đã không tha thứ. Nó lớn tiếng nạt nộ, nó hành hạ, phỉ nhổ, khinh miệt cô khiến cho cô bây giờ không còn một chút dáng dấp gì gọi là niềm tự hào của một nhà giáo nữa. Nhiều khi đứng lớp mà nom cô như  một cái xác không hồn.

Duy đứng lại ở ven đường. Từ xa, bóng dáng cái xe buýt đã xuất hiện và sắp sửa trờ tới. Chúng tôi nắm chặt tay nhau và cùng nhìn nhau không nói. Tôi bỗng cảm thấy như  mình gần gũi với anh hơn là trong suốt quãng thời gian hàn huyên tái ngộ vừa qua. Nhìn ánh mắt của anh, tuy mệt mỏi nhưng thoáng hiện vài nét long lanh, tôi như vụt tìm lại  được hình bóng của người bạn cũ ngày

xưa.



****



Khoảng hơn mười  ngày sau tôi lại còn có dịp gặp lại Duy khi tôi quyết định ra ga Sài Gòn để chào từ biệt anh trở về miền Bắc.

Thân nhân của Duy đã xếp hàng lấy vé cho anh từ mấy hôm  trước nên anh đã vào sân ga từ lúc năm giờ sáng. Tôi đến sau anh,  nhưng cũng không trễ, vì còn cả tiếng đồng hồ tầu mới khởi hành. Tôi chỉ việc lấy "vé vào sân"  được bán ở ngay cổng vào sân ga. Loại vé này chỉ bán cho người đi tiễn thân nhân để  được phép vào sân ga. Mua vé xong, tôi đã đi dọc dẫy toa tầu để tìm anh. Vào thời điểm đó, con tầu thống nhất Bắc Nam đã có thể chuyển bánh  được coi như  một niềm tự hào lớn lao của chế độ mới. Hành khách rất đông đông nhất là đám ở Hà Nội vào thăm thân nhân rồi đến ngày phải trở ra và đám  bộ đội phục viên tức  được giải ngũ trở về quê quán. Ngoài ra cũng còn cả những cán bộ, công nhân viên di chuyển xuyên suốt tuyến Bắc Nam do nhu cầu công tác.

 Các toa tầu lúc này đã khứ khự hành khách với đủ loại hàng hóa chồng chất chung quanh. Tôi nhìn thấy Duy lọt thỏm sau khung cửa sổ chen chúc những người. Trong khung cảnh này, tôi thấy rõ là chẳng còn dịp nào mà người đi kẻ ở nói  được với nhau những lời thở than  trước khi toa tầu chuyển bánh. Duy hình như  cũng biết điều đó nên cố thò cổ ra ngoã và hét to :

- Chào nhé ? Thôi đi về đi !

Tôi ngậm ngùi giơ tay lên vẫy anh thật lâu. Rồi bỗng như  bị những người phía sau xô đẩy, anh chợt mất hút sau khung cửa sổ toa tầu. Tôi có cảm giác hụt hẫng, xé lòng như  có một người thân vùa bị cơn sóng dữ ùa lên khỏa lấp và nuốt chửng mất hình hài vào lòng biển.

Rồi tôi cứ đứng như  thế ngơ ngẩn như  một kẻ mất hồn cho đến khi tiếng còi tầu rúc lên báo hiệu tới giờ chuyển bảnh. Những người đi tiễn chạy ùa lên, cố với tay để vẫy gọi thân nhân trên tầu. Tôi cũng cố gắng tìm tòi hình bóng của Duy một lần nữa.  nhưng tôi không còn trông thấy anh ở đâu nữa.

Vĩnh biệt Duy ! Vĩnh biệt Hà Thành với điệu nhạc tuyệt vời mà tôi vẫn nghêu ngao từ hổi mới di cư vào Nam hồi năm 1954 :

Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi

ánh đèn giăng mắc muôn nơi

áo màu tung gió chơi  vơi



Hà Nội ơi, phố phường dãi ánh trăng mơ

Liễu mềm nhủ gió ngây thơ

Thấu chăng lòng khách bơ vơ ?



Có một điều thay đổi khi tôi nhớ đến bài hát này. Vào năm 1954, hát lên bài này, tôi thấy lòng mình dâng lên một nỗi nhớ miên man, day dút. Vào thời điểm bây giờ, chỉ vài ba năm sau khi Sài Gòn đổi chủ, Hà Nội đã gần gũi hơn vì người Hà Nội đã vào đến đây. Nhung buồn thay khi nhớ đến bài hát này, tôi không còn tìm thấy những tình cảm day dứt như  xưa nữa. Hà Nội ngày xưa trong tôi đã phai nhòa trong  những dáng người như  Tửu, như  Toán , như  Duy . . . .và nhiều toán cán bộ nam nữ khác từ miền Bắc vào, đi lũ lượt trên các đường phố.

Lúc tiễn Duy trở ra về, tôi phải đi qua mặt tiền của khu nhà ga Sài Gòn, khi đó còn tọa lạc ngay gần xế cửa chợ Bến Thành. Tuy trời vừa hửng sáng  nhưng ở đây đã ồn ào, náo nhiệt. Từ ngoài vỉa hè đường vào đến dẫy tam cấp có những bậc xi măng bueớc lên gian đại sảnh của nhà ga, đâu đâu cũng chật ních những người.  Nhưng nếu chui  được hẳn vào khu vực chính bán vé thì quang cảnh mới thấy hãi hùng. Cả một đám người hiện ra, mang rặt một mầu ảm đạm như  quần áo mầu xanh bộ đội đã cũ nhàu, y phục dân sự thì nhuộm đen, nhuộm nâu, cái lành lặn, cái vá víu hay rách nát, tất cả phơi bầy ra một khoảng chật hẹp mà chung quanh thì la liệt rác rueởi nào bã mía, giấy kẹo, tàn thuốc, cùng đủ thứ lá bóc ra từ bánh chưng, bánh giò...Tất cả những thứ ấy đều có mùi, từ mùi mồ hôi người đến mùi quần áo cũng như  mọi thứ mùi rác rưởi đã quyện lấy nhau mà ngùn ngụt tỏa lên, bốc ngùn ngụt trong cái oi bức của một ngày nắng nóng Sài Gòn. Đã thế, trên sàn xi măng còn có kẻ đứng, người ngồi, nhiều góc còn có người giải báo, kẻ lót áo mưa ngả lưng ngay trên sàn gạch. Còn bộ đội thì lổn nhổn, la liệt, chỗ thì ngồi bó gối hút thuộc vặt, chỗ thì lim dim ngủ gật lại có những anh còn đang ngáy khò khò vì chắc phải lấn chỗ, xếp hàng qua đêm nên bây giờ ngủ gục.

Ở ngay  trước quầy bán vé, tuy mọi người có chen lấn nhau,  nhưng hàng ngũ có vẻ trật tự hơn là ở phòng đợi . Đằng sau tấm lưới ngăn cách nhân viên hỏa xa với hành khách, cô nhân viên không thấy bán vé hay kiểm tiền mà chi có nhiệm vụ xem xét giấy tờ di chuyển của hành khách có hợp lệ không. Nếu hợp lệ thì  được cô ta cấp cho một giấy chứng nhận, được giấy chứng nhận rồi, hành khách phải trở về nhà để ngày hôm sau theo hẹn quay trở lại xếp hàng tiếp mà mua vé !

Tại sao nhà nước lại “hành" dân như  thế ?

Không phải đâu ! Nhân viên bán vé không có thì giờ kiểm soát giấy tờ của hành khách nên mới phải đặt thêm một "khâu” kiểm tra  trước khi bán vé. Sau khi giấy tờ  được xem xét kỹ lưỡng là hợp lệ rồi, thì hành khách  được cấp phát một vé kiểm nhận để trình ra khi mua vé tầu . Chỉ có thế mới ngăn chặn  được bọn xấu ngang nhiên di chuyển bằng phương tiện của nhà nước trong khi các công nhân viên, cán bộ nhà nớc phải chầu chực nhiều ngày mới mua  được tấm vé. Riêng bọn giáo viên miền Nam chúng tôi thì không  được mua vé đi Hà Nội, chỉ  được ra đến Huế thôi. Qui định của nhà nước lúc đó là như thế. Cho nên phải thêm "khâu” kiểm tra giấy tờ  trước khi bán vé là phải rồi. Còn kêu ca chi nữa ?

. Nói chung, để mua  được một tấm vé tầu thống nhất Bắc Natn hồi đó, người ta phải mất ít nhất hai ngày. Ngày đầu đi xếp hàng xin kiểm nhận giấy tờ. Ai có người quen trong thành phố thì còn đỡ, nếu không thì cứ trải đại chiếu ra nằm, ngồi la liệt từ trong đại sảnh lan xuống vỉa hè nhẫn nại chờ qua ngày hôm sau chen chân vào giành chỗ mua vé. Thành ra số hành khách chờ đợi ở cả hai khâu,, cứ tích lại. Người đông lúc nhúc như  bầy vịt chen chúc trong một cái lồng chật hẹp. Mặt mũi ai cũng bơ phờ nhếch nhác, hiếm thấy trên môi người nào nở ra  được một nụ cười. Nếu cứ nhìn ngắm cho kỹ, ta chợt có cảm giác như  đang phải đối diện với một lớp người từ cõi xa xăm nào hiện về. Họ có cử động mà không thấy nét linh hoạt. Họ có nói năng, trao đổi mà không thấy âm thanh sôi nổi của sự sống. Nhìn họ, ta thấy mọi nỗi cơ cực trong cái xã hội  được gọi là XHCN bị bộc ]ộ ra hết. Nhân phẩm và những giá trị khác của con người đã không  được giới lãnh đạo quan tâm nên mới ra nông nỗi  này.

 Nhưng nếu con người ở những chỗ đó câm nín, ít biểu lộ tình cảm ra ngoài thì các vật dụng hay hàng hóa mà họ mang theo lại có thể nói lên phần nào nỗi niềm ao ước nhỏ nhoi, hay tâm tình vui vẻ riêng tư của mỗi người. Ta hãy coi một bác công nhân quàng trên vai cái khung xe đạp, tay còn ôm khư khư một bó căm xe. Anh bộ đội thì ôm đồm một mớ có đến hai, ba con búp bê bằng nhựa rẻ tiền lại kèm thêm vài chiếc áo đầm con nít may bằng vải in hoa mầu sắc nom rất lòe loẹt. Lại có những thùng những sọt để ngổn ngang trên lối đi, bên trong nhồi nhét đủ thứ đồ dùng như  những cái khay nhôm, những chồng bát hay ly nhựa,  nhưng cái rồ rá bằng ny-lông xanh đỏ, và những nồi niêu, xoong chảo làm bằng nhôm, bằng đồng còn mới tinh nom như  mới đúc ở lò ra.

Nhưng cái mà người ta mang theo nhiều nhất không phải là những đồ dùng hàng ngày mà lại là những ổ bánh mì, loại dài có, loại đóng thành khuôn vuông vắn nom như  cái gối để đầu giường  được gọi là bánh mì gối cũng có.



                                                  (còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét