Vợ Lầu sống với mẹ già ở ngay kế cận nhà thằng Há. Mẹ chị làm vườn quanh quẩn ở gần đó. Còn chị thì nhận may quần áo cho mấy tiệm bán vải trên chợ Lùng. Là người chăm chỉ, suốt ngày cặm cụi bên chiếc máy may, chị có nước da thật trắng trẻo và mỡ màng. Có thể nói, chị là người xinh đẹp nhất trong ấp Vĩnh Hựu. Tính nết chị lại hiền hậu, nhu mì, đối với Lầu, chị là một người vợ hoàn toàn, đem lại cho gã vô vàn hạnh phúc. Nhiều khi Lầu muốn đem vợ vào trú ngụ ngay ở khu gia binh trong đồn. Nhưng như thế lại không thuận tiện cho việc buôn bán của chị. Hơn nữa bà cụ lại không bao giờ muốn rời mảnh đất của mình để thiên đô đi chỗ khác, cho dù mảnh đất đã cằn cỗi, giàn mướp đã xác xơ và mái tranh dột nát cứ mỗi ngày một thêm suy sụp theo thời gian. Nhiều lần Lầu nài nỉ bà cụ, lấy cớ ở nhà có nhiều nguy hiểm để thuyết phục, nhưng bà chỉ đáp một cách thản nhiên:
- Nguy hiểm cái gì! Ai bắn, ai giết được tao? Chúng mày là Quốc gia, chúng mày có bắn tao không? Còn Cộng sản ư? Thì bọn thằng Há, thằng Đực, thằng Bình, toàn là lũ con cháu trong nhà chớ ai?
Lầu cãi lại:
- Nhưng tụi nó ngày xưa khác, bây giờ khác! Bây giờ chúng nó biết cầm súng, biết giết người, bộ chỉ có má là tụi nó thương sao?
- Tao chẳng cần đứa nào thương hết. Mà điều không lẽ khi không tụi nó xách súng đến bắn tao đó chắc?
- Nhưng tên bay, đạn lạc, biết thế nào mà lường!
- Ui chao! Tên bay, đạn lạc. Nếu cái số bị tên bay đạn lạc thì dù mày có chạy lên trời cũng lãnh búa như thường chớ đừng có nói đi trốn đi tránh ở đâu đâu.
Rồi cụ chép miệng:
- Ui thôi đi! Nhà tao, tao ở. Nếu có chết, tao cũng được chết ở đây, nơi quê cha đất tổ, hơi đâu mà lại dại dột bỏ đi.
Vì cụ cương quyết quá như vậy, nên Lầu đành chịu thua, gã không nỡ để bà sống một mình lủi thủi nên cũng không còn tính cái chuyện đem vợ vào đồn. Thành ra, cứ cách độ vài ba ngày, gã lại phải về thăm nhà một lần. Đường đi từ đồn Phi Mã về ấp Vĩnh Hựu tuy chẳng bao xa nhưng có phần nguy hiểm. Nhất là vào những giờ ăn trưa, ăn chiều, và lúc trời chạng vạng tối. Vào những lúc đó, có những anh du kích ẩn nấp ngoài Đầm Tròn hay lẻn về xin nhà bữa cơm dưa muối. Ăn no kềnh bụng ra rồi, các trự hay nằm phưỡn rốn trên những chạc cây um tùm, hoặc rình mò ẩn nấp như những con cầy hương ở quanh những bụi duối dại. Vô phúc một anh lính cơ hữu trong đồn nào láng cháng đi qua thì mười phần chắc chắn chín phần sẽ bị “để” một viên vào ngực.
Chính vì những cái nguy hiểm bất ngờ ấy mà Lầu chỉ dám đi vào lúc sáng rõ, và trở về đồn trước khi ánh nắng qua khỏi cánh liếp ở đầu hè. Một đôi khi, bọn du kích biết đích xác sự hiện diện của Lầu ở trong ấp, nhưng chúng nó cũng không ra mặt. Một phần, chẳng bao giờ chúng nó đi đông quá ba người vào lúc ban ngày, một phần thì cũng ngán khẩu Carbine M2 của Lầu bắn liên thanh, nhả luôn một lúc cả băng đạn. Ngoài ra, tụï nó cũng còn phải chịu nghe một phần các qui luật của các cụ già có mặt ở trong ấp. Các cụ vẫn nói rằng:
- Tụi bay muốn giết nhau ở đâu thì giết, nhưng cấm bắn nhau ở trong các ngõ ngách này. Chẳng dây mơ cũng rễ má, ít nhiều gì tụi bay cũng có liên hệ gia đình, ruột thịt hay quê hương. Giết nhau trên phần đất của ông cha là nhục nhã. Tao bảo không nghe thì đừng hòng vô xin cơm, xin nước gì nữa hết!
Tối thiểu điều luật này cũng được hai bên áp dụng nghiêm chỉnh trong suốt quãng thời gian bộ đội chủ lực Miền chưa xuất hiện theo hướng xuất phát từ mật khu Lê Hồng Phong cách đây không đầy 30 cây số đường mòn, băng qua những đầm lầy hay đồng cỏ gianh ngập nước.
Bây giờ mặt trận Phú Sơn đã mở màn và bọn thằng Há được lệnh gia tăng hoạt động quấy rối. Tuần lễ trước, Trung úy trưởng đồn đi họp ở trên Chi khu về cho anh em biết là tình hình sẽ không còn xuông xẻ như trước nữa. Như thế là sẽ có những trận đánh lớn khởi sự từ đầu mùa mưa sắp tới. Đám mây đen chết chóc chắc chắn sẽ đe dọa nặng nề các vùng trù phú dọc theo quốc lộ số 1. Thế giới của lửa đỏ, của những cột khói đen, những cảnh tàn phá trơ trụi chỉ còn những lớp tường cháy xám, chắc chắn sẽ ngự trị ở mọi nơi, mọi chốn. Quỉ dữ đã chuyển mình và sửa soạn gầm thét. Cặp mắt của nó bắt đầu long lên đỏ đòng đọc. Đỏ như những ánh lửa xuyên ngang, xuyên dọc bầu trời mà đêm nào lính cơ hữu trong đồn Phi Mã cũng bắn ra để đặt binh sĩ trong tình trạng báo động thường xuyên và khẩn cấp.
Lầu đánh tiếng ngay từ lối cổng vào. Chị Lầu ngồi máy ở cửa sổ nhìn ra. Nàng nhoẻn miệng cười. Lầu hái một quả ổi trên cành, vừa đưa lên miệng cắn vừa nhìn vợ, ánh mắt ẩn một niềm thương yêu, trìu mến. Gã bước lên thềm đặt cây súng tựa bên phản gỗ rồi kéo ghế ngồi xuống cạnh vợ. Chị Lầu đang có mang, bụng đã lớn nên dáng đấp có vẻ nặng nề. Khi ngồi, chị phải dựa lên một chiếc gối bông. Lầu nói:
- Em phải bớt việc đi, chớ coi thường, dễ hư cái thai đó.
Nàng cười, hai má đỏ ửng:
- Chẳng sao đâu mình à. Em gắng một chút để mua được cái nôi. Chà, trên chợ có bầy bán một cái, nom dễ thương hết sức.
Lầu bâng khuâng:
- Không biết là con gái hay con trai nhỉ?
- Em đoán là con trai. Vì nó đạp dữ quá.
- Có chắc hôn? Thời buổi này tụi con gái còn dữ bằng mấy!
Nói rồi gã chép miệng:
- Chà... Chà... Tụi nó ở bên Vinh Sơn về, kể chuyện bọn nữ du kích mới xuất hiện trong mật khu bắn súng hay ác, mà chiến đấu cũng dữ như cọp cái nữa.
- Chắc là chuyện tầm phào chớ gì. Phụ nữ chân yếu tay mềm, ai mà làm được những chuyện đó.
Lầu trợn mắt:
- Tầm phào sao được! Chính bọn đụng trận với tụi nó về kể chuyện như vậy mà.
- Thiệt à?
- Vậy mới “chì” chớ. Bọn lính tráng lèo khoèo cỡ thằng Dư, thằng Chính chẳng ăn nhằm gì. Nghe nói thì háo hức mong “đụng” vậy, chớ gặp tụi nó thiệt thì ngán thấy bà.
Ngừng một lát gã tiếp:
- Mà điều đàn bà, con gái cỡ đó chả ai mong. Nếu em có đẻ con gái thì nó phải dịu dàng như em mới quí.
Chị Lầu phì cười:
- Giống em mà ham cái gì! Phải như cô bán hàng ở Câu Lạc Bộ trong đồn Phi Mã thì mới ngon chớ.
Lầu la lên:
- Bậy nào! Ai biểu em cái chuyện tầm bậy,tầm bạ như vậy?
- Chả ai biểu em cũng biết.
- Thôi! Lại ghen bóng ghen gió rồi.
- Ai người ta thèm ghen. Anh muốn ai thì mặc anh chớ.
- Thiệt hôn?
- Thiệt đó.
- Vậy mai anh uống cà phê hổng phải trả tiền cho em coi.
Giọng chị Lầu đột nhiên khác đi:
- Ui, rồi được tặng nhiều thứ khác, chớ cà phê không mà ăn thua gì.
Rồi bỗng nhiên chị nghẹn lại, cặp mắt bắt đầu long lanh. Thái độ ấy khiến Lầu trở nên cuống quít. Gã vội vàng xuýt xoa:
- Ý! Nói giỡn chơi vậy mà em tưởng thiệt hả?
Chị Lầu bật lên một tiếng nức và bây giờ thì hai giọt lệ đã ứa ra trên vành mi. Gã đàn ông hoảng hốt, ôm chầm lấy vợ ï nói rối rít:
- Trời đất ơi! Em thiệt kỳ! Anh nói giỡn thiệt mà. Đứa nào thì cũng chẳng bằng em hết đó. Thiệt mà!
Mặt chị Lầu tươi hơn một chút. Chị cười qua hàng lệ:
- Thiệt không?
- Thiệt!
- Thề đi!
- Đứa nào nói dối đứa ấy bị bắn chết rục xương.
Chị Lầu vội vàng bị chặt lấy miệng chồng:
- Thôi! Mình chỉ được cái nói dại là không ai bằng. Lần sau em cấm ngặt cái lối thề độc địa như vậy đó.
Lầu mỉm cười:
- Thề thì thề chớ có làm sao. Anh thành thực mà.
- Mà điều em không thích cái lối đó. Em sợ.
- Sợ cái gì?
- Sợ cái liều của mình! Trời đất này, mũi tên hòn đạn vô tình biết đấy là đâu. Liều lĩnh lắm chỉ tổ dại. Mình hứa với em là không có liều lĩnh đi.
- Anh hứa.
- Phải rồi. Mình phải nghĩ đến em, đến con mới được.
Lầu không đáp, giơ cánh tay lực lưỡng bồng vợ vào lòng mình. Gã say sưa hôn lên mái tóc óng ả của nàng. Mùi thuốc gội thoang thoảng xông lên mũi làm gã ngây ngất. Ngay lúc đó, bà cụ ở ngoài cắp rổ đi vào. Chị Lầu vội vã gỡ tay chồng ra và nói:
- Có trái mít nào chín không má?
Bà cụ nhìn về phía Lầu vui mừng:
- Kìa, anh đã về đấy ư? Chưa đâu. Phải ít ngày nữa mít mới ăn được.
Lầu nói:
- Bữa nay má nấu cơm luôn cho con ăn nữa má. Con ở nhà chơi tới chiều.
Bà cụ nói:
- Vậy để tao đi hái mớ rau mồng tơi. Bữa nay có ít con cua đồng béo lắm.
Lầu khoan khoái:
- Chà, canh mồng tơi nấu cua thì còn gì bằng. Để con đi nhóm bếp giùm má, nhen.
Bà cụ nhìn đôi trẻ, giọng hiền từ:
- Thôi, ngồi đó đi. Nhóm cái bếp có nặng nhọc gì đâu.
Nói rồi bà cụ đi ra. Mái tóc muối tiêu như lấp lánh dưới ánh nắng đang bắt đầu tiến vào đầu hè. Lớp vải nâu trên nếp áo đã bạc mầu, còng xuống theo sống lưng trĩu nặng vì thời gian, vì khổ cực. Trông dáng đi của cụ thật đầy vất vả và chịu đựng. Bỗng nhiên, lòng gã đàn ông dâng lên một niềm thương xót vô hạn, cũng như ngày nào ngồi trên vọng gác, gã bùi ngùi theo dõi từng bước chân cực nhọc của các bà cụ già, của những người đàn bà cằn cỗi trước tuổi vẫn từng nhẫn nại đội nắng, đội mưa, đội cả khó khăn, nguy hiểrn băng qua những khúc đường đầy rẫy mìn và chông để buôn bán kiếm sống.
Ôi! Quê hương ta thật là đầy tủi nhục và người dân ta thật là phi thường. Chẳng ai có thể tưởng tượng được rằng cái sức chịu đựng dẻo dai bền bỉ ấy đã kéo dài từ hơn hai mươi năm. Hai mươi năm dòng dã. Hai mươi năm của tàn phá, đổ vỡ, của thiếu thốn, bệnh tật, của đau đớn, phân tán, chia lìa. Trên những vầng trán trĩu nặng ưu tư, chẳng mấy ai là không có một lần phải chít một vòng khăn trắng. Những cặp mắt lờ đờ, mệt mỏi chán chường ấy, chẳng mấy ai lại không một lần phảí nhỏ những giọt lệ xót xa, đau đớn.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét